Giải pháp quy hoạch phòng ngừa và giảm thiểu ô nhiễm môi trường đô thị
Một số thách thức từ đô thị hóa
Quy hoạch đô thị chưa phù hợp với yêu cầu bảo vệ môi trường: Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng ô nhiễm môi trường tại các đô thị là các vấn đề môi trường chưa được đề cập đầy đủ và quan tâm đúng mức trong quy hoạch xây dựng đô thị. Ngoài việc quy hoạch sử dụng đất và phân khu chức năng, các vấn đề cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, như hệ thống thoát nước, thu gom và xử lý rác, xử lý nước thải, giảm ô nhiễm không khí và tiếng ồn… chưa được chú ý đúng mức. Mặc dù việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường cho các đồ án quy hoạch đô thị đã được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường, nhưng công tác triển khai thực hiện cho đến nay vẫn còn chậm, chưa hiệu quả và chưa chứng tỏ được tầm quan trọng của việc BVMT trong quy hoạch xây dựng đô thị.
Một nguyên nhân khác dẫn đến việc các đô thị phải chịu sức ép môi trường ngày càng tăng là việc thiếu các biện pháp hữu hiệu trong chỉ đạo và quản lý quy hoạch xây dựng. Tình trạng xây dựng lộn xộn tại các đô thị lớn là một vấn đề bức xúc đòi hỏi những biện pháp quản lý cấp bách và hiệu quả, nếu không cái giá phải trả cho việc giải quyết hậu quả môi trường sẽ là vô cùng lớn. Công tác quản lý quy hoạch xây dựng bước tiếp theo và cụ thể hóa các công tác lập quy hoạch xây dựng đô thị, một yếu tố then chốt trong việc xây dựng các đô thị bền vững và hòa hợp với môi trường.
Hệ thống cây xanh bị tàn phá: Tại các vùng đô thị hóa nhanh, bộ khung BVMT cho những vành đai xanh không được quy hoạch và bảo vệ. Chỉ tiêu đất trồng cây xanh trong các đô thị quá thấp, trung bình mới đạt 0,5 m 2/người. Tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh con số này cũng không quá 2 m 2/người, chỉ bằng 1/10 chỉ tiêu cây xanh của các thành phố tiên tiến trên thế giới. Một số di sản văn hóa, lịch sử và một số di tích, vùng cây xanh bảo vệ môi trường đang bị vi phạm, tàn phá nặng.
Hệ thống không gian xanh, lá phổi của đô thị, hầu như chưa được chú ý và các cơ quan quản lý chưa hoạch định chính sách đối với vấn đề này. Quan niệm về vấn đề cây xanh BVMT còn đơn thuần là trồng cây trên đường phố để che nắng. Tại các khu, cụm công nghiệp, theo quy định phải dành 10-15% quỹ đất cho trồng cây để làm mát chống bụi khói độc hại và làm nơi giải trí cho công nhân, nhưng thực tế ở nhiều khu công nghiệp còn thiếu đất cây xanh.
Bất cập về giao thông gây ô nhiễm môi trường đô thị: Tốc độ phát triển hệ thống hạ tầng giao thông đô thị thấp hơn rất nhiều so với tốc độ đô thị hóa và tốc độ gia tăng phương tiện giao thông cơ giới. Diện tích đất giao thông đô thị không đủ, mạng lưới giao thông phân phối không đồng đều, thông số kỹ thuật tuyến đường rất thấp, hành lang đường luôn bị lấn chiếm. Theo số liệu thống kê, tại các đô thị lớn, các chỉ tiêu về hạ tầng giao thông cũng rất thấp, chỉ đáp ứng được khoảng 35-40% so với nhu cầu cần thiết, như: Hà Nội, diện tích đất giao thông khoảng 7,8%, mật độ đường đạt 3,89 km/km 2; tại thành phố Hồ Chí Minh diện tích đất giao thông khoảng 7,5%, mật độ đường đạt 3,88 km/km 2. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra ô nhiễm không khí và tiếng ồn.
Bằng việc gia tăng phương tiện giao thông cơ giới tại các đô thị trong những năm qua đã làm gia tăng ô nhiễm bụi, khí thải và tiếng ồn do các hoạt động giao thông gây ra. Ùn tắc giao thông, phố hóa quốc lộ, tỉnh lộ, hoạt động xây dựng hạ tầng và khu dân cư góp phần làm gia tăng mức độ ô nhiễm. Ô nhiễm tiếng ồn giao thông và các ảnh hưởng tới sức khỏe người dân đô thị Việt Nam lớn hơn nhiều so với các đô thị khác trên thế giới. Theo kết quả nghiên cứu giá trị mức ồn tăng từ 2-5dBA do cấu trúc nhà ống, liền kề, bám dọc theo các tuyến đường. Sự bố trí không hợp lý các khu chức năng trong đô thị làm nghiêm trọng thêm ô nhiễm tiếng ồn, nhất là đối với trường học, bệnh viện, công sở và khu dân cư. Giá trị tiếng ồn vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1-15dBA.
Giải pháp quy hoạch phòng ngừa và giảm thiểu ô nhiễm
Cần tiếp tục thực hiện những tiêu chí đô thị phát triển bền vững đã đề ra trong định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị quốc gia, đồng thời tiến hành nghiên cứu thực hiện cụ thể một số chương trình như: Chương trình quốc gia về BVMT, cảnh quan thiên nhiên, giữ gìn cân bằng sinh thái đô thị; thực hiện mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị, vừa đáp ứng nhu cầu về khối lượng, chất lượng phục vụ, vừa bảo đảm các yêu cầu BVMT nói chung và môi trường đô thị nói riêng.
Tiến hành lập quy hoạch BVMT các vùng đô thị hóa bao gồm: Bảo vệ hệ sinh thái và cảnh quan đô thị; cải tạo các khu nhà ổ chuột và khu nghèo đô thị; hình thành vành đai xanh và không gian mở cho các thành phố, đặc biệt là thành phố lớn, thành phố có khai thác khoáng sản; cấp thoát nước và vệ sinh môi trường; quản lý chất thải rắn đô thị; quy hoạch nghĩa trang đô thị; BVMT không khí đô thị; cải thiện công tác quản lý môi trường đô thị.
Lồng ghép những vấn đề môi trường vào công tác quy hoạch, gồm có quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch vùng, quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết đô thị. Thực hiện một cách có hiệu quả việc đánh giá tác động môi trường cho các đồ án quy hoạch đô thị cấp quốc gia, vùng, thành phố và thị xã.
Thực hiện các quy định về quy hoạch và cải tạo nâng cấp kỹ thuật hạ tầng và dịch vụ cho khu vực nghèo đô thị. Xây dựng một hệ thống đô thị không còn nhà ổ chuột vào năm 2020 thông qua các chương trình cụ thể.
Tập trung vốn đầu tư, nâng cao năng lực quản lý, khai thác đô thị phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế-xã hội. Cần quan tâm tới các yếu tố vùng, liên tỉnh hoặc liên đô thị trong việc nghiên cứu các quy hoạch chuyên ngành hạ tầng đô thị, nhất là đối với các lĩnh vực cấp nước, quản lý chất thải rắn, nghĩa trang…
Rà soát, xây dựng và ban hành các quy trình kỹ thuật, quy phạm, tiêu chuẩn trong các lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật đô thị, môi trường. Quản lý chặt chẽ các dự án đầu tư theo đúng các thủ tục về đánh giá tác động môi trường, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và cảnh quan kến trúc, kể từ khâu lập luận chứng, thiết kế, đến thi công và vận hành.
BVMT, cảnh quan thiên nhiên, giữ gìn cân bằng sinh thái đô thị; xây dựng và duy trì bộ khung bảo vệ thiên nhiên trên địa bàn cả nước; có biện pháp xử lý, tái sử dụng chất thải sinh hoạt và sản xuất bằng các công nghệ thích hợp./.








