Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 29/05/2013 22:11 (GMT+7)

Giải pháp nâng cao chất lượng công tác giáo dục môi trường trong trường dân tộc nội trú

1. Đặt vấn đề

“Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên." (Theo Điều 1, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005). Nếu hiểu theo chức năng sống thì môi trường là không gian sống của con người và sinh vật. Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người cần có các nhu cầu tối thiểu về không khí, độ ẩm, nước,... Tất cả các nhu cầu này đều do môi trường cung cấp. Tuy nhiên khả năng cung cấp các nhu cầu đó là có giới hạn và phụ thuộc vào trình độ phát triển của từng quốc gia và ở từng thời kì. Vì vậy, bảo vệ môi trường là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở hầu hết các quốc gia trên thế giới và là một trong các chỉ số đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia. Một trong những giải pháp bảo vệ môi trường có tính chiến lược đối với mọi quốc gia là giáo dục bảo vệ môi trường, hay còn gọi là giáo dục môi trường (GDMT). Từ năm 1980, vấn đề giáo dục môi trường đã được đưa vào Việt Nam và từ đó đến nay, công tác giáo dục môi trường được xem là một trong những hoạt động quan trọng trong quá trình giáo dục hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của thế hệ trẻ.

Tuy nhiên, việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục môi trường của các trường phổ thông trong thời gian qua chưa liên tục, chưa đều, chưa đồng bộ, chưa gắn với thực tế và chưa trở thành pháp lệnh nên hiệu quả chưa cao. Cũng như các trường phổ thông nói chung, công tác giáo dục môi trường trong các trường phổ thông Dân tộc nội trú (PTDTNT) tỉnh Quảng Ngãi cũng còn nhiều bất cập. Do đó, việc đánh giá đúng thực trạng công tác giáo dục môi trường trong trường PTDTNT nhằm đề ra các giải pháp quản lý phù hợp, nâng cao công tác giáo dục môi trường trong nhà trường là vấn đề cần thiết và cấp bách.

Giáo dục môi trường ở trường học là quá trình thông qua các hoạt động giáo dục nhằm giúp học sinh có được kỹ năng và sự hiểu biết về những giá trị của môi trường. Hoạt động giáo dục môi trường đã được các trường trung học cơ sở (THCS) DTNT tổ chức bằng các hoạt động giáo dục chính khóa kết hợp với hoạt động ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp. Ít nhiều, công tác giáo dục môi trường trong thời gian qua đã góp phần nâng cao nhận thức, thái độ và hành vi đối với môi trường của học sinh. Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa như mong muốn. Trong đó, một phần là do hiệu trưởng (HT) các trường chưa quan tâm thường xuyên đến công tác giáo dục môi trường trong trường mình. Nhận thức của phần lớn cán bộ quản lý (CBQL) và giáo viên (GV) về vấn đề này chưa cao; các tổ chuyên môn chưa quan tâm sâu sát đến việc tổ chức giảng dạy tích hợp kiến thức GDMT trong các môn học, công tác tổ chức các điều kiện hỗ trợ, đặc biệt là cơ sở vật chất và cung ứng các tài liệu cho GV chưa chủ động, tích cực; kỹ năng giảng dạy về GDMT của đội ngũ GV còn yếu; công tác kiểm tra, đánh giá và khen thưởng về GDMT chưa được HT chú ý.

Với các trường PTDTNT, giáo dục môi trường có ý nghĩa đặc biệt là giúp cho các em học sinh dân tộc thiểu số nâng cao nhận thức, hình thành kỹ năng và những hành vi ứng xử với môi trường. Các em đến từ vùng rừng núi vốn sẵn có môi trường tốt, nhưng cũng là nơi dễ bị tổn thương nhất khi đối diện với nạn phá rừng… như hiện nay.

Công tác quản lý của hiệu trưởng về giáo dục môi trường có tác động đến nhận thức của đội ngũ giáo viên, học sinh; xây dựng đội ngũ dạy GDMT; quản lý tốt chương trình, nội dung, kế hoạch dạy học; tổ chức nhiều hình thức GDMT phong phú và tổ chức tốt các điều kiện hỗ trợ,..

2. Khái quát về thực trạng công tác quản lý giáo dục môi trường:

Hiện nay, tại 6 huyện miền núi ở Quảng Ngãi, mỗi huyện đều có một trường DTNT cấp THCS. Ở cấp tỉnh có một trường DTNT cấp THPT. Như vậy, Quảng Ngãi hiện nay có tổng cộng 7 trường phổ thông DTNT. Để đánh giá thực trạng công tác quản lý GDMT ở các trường PTDTNT tỉnh Quảng Ngãi, chúng tôi đã trưng cầu ý kiến của 13 CBQL (gồm HT và PHT), 105 giáo viên và 300 học sinh. Qua kết quả khảo sát, có 100% CBQL, 95.2% GV và 88.3% HS cho rằng công tác GDMT trong trường THCS DTNT là rất cần thiết và cần thiết. Tuy nhiên, vẫn còn 4.8% GV và 11.7% HS cho rằng công tác GDMT trong nhà trường là không cần thiết. Qua kết quả khảo sát, có thể đưa ra nhận định chung là: Đa số các CBQL, GV có ý thức cao về sự cần thiết của công tác GDMT trong nhà trường, đã thực hiện tương đối đầy đủ các chức năng quản lý về GDMT. Tuy nhiên vẫn còn một số hiệu trưởng ít chú ý đến giải pháp nâng cao nhận thức về công tác GDMT cho HS, GV; một số GV vẫn còn xem nhẹ GDMT; cơ chế quản lý còn nhiều bất cập; công tác GDMT đã được đưa vào kế hoạch hoạt động của năm học nhưng trong quá trình chỉ đạo, tổ chức thực hiện vẫn chưa sâu sát. Công tác kiểm tra, đánh giá về GDMT chưa được chú ý. Việc đổi mới nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học, công tác quản lý chưa đi vào chiều sâu và chưa thường xuyên nên chất lượng GDMT còn thấp. Hầu hết GV chưa được bồi dưỡng, tập huấn về công tác GDMT. Phương tiện dạy học hỗ trợ cho công tác GDMT ở các trường còn thô sơ, lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác GDMT hiện nay.

3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng

Qua kết quả khảo sát cho thấy, những nguyên nhân tồn tại bất cập trong công tác quản lý GDMT ở các trường THCS DTNT tỉnh Quảng Ngãi hiện nay là: Đội ngũ GV giảng dạy GDMT chưa được tập huấn, bồi dưỡng về GDMT thường xuyên, trình độ chuyên môn về GDMT có những hạn chế nhất định. Việc tổ chức giảng dạy các nội dung GDMT bằng phương pháp tích hợp, lồng ghép vào các môn học liên quan còn lỏng lẻo, chưa mang tính pháp quy; chưa quy định về kiểm tra, đánh giá các nội dung có liên quan đến GDMT của các cấp quản lý. Cơ sở vật chất, phương tiện dạy học còn thiếu và chưa đồng bộ như tài liệu hướng dẫn, tranh ảnh, băng hình… Một số HT chưa chú ý xây dựng nhà trường là môi trường sư phạm có tính GDMT cao. GV chưa quan tâm để đầu tư thời gian hợp lý và công sức vào đổi mới phương pháp giảng dạy GDMT. Công tác khen thưởng về GDMT chưa được các HT chú ý. Các hình thức hoạt động ngoài giờ lên lớp chưa hấp dẫn, chua kích thích HS tham gia công tác BVMT, hiệu quả của công tác GDMT còn thấp. Quy chế về đánh giá giờ dạy của Bộ chưa cụ thể. Sự quá tải của chương trình dạy học. Sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và các tổ chức, đoàn thể về GDMT và BVMT cho HS chưa chặt chẽ. Trình độ dân trí ở các vùng miền núi tỉnh Quảng Ngãi còn thấp là một khó khăn lớn cho công tác GDMT.

4. Các giải pháp nâng cao công tác GDMT

Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi đề xuất 5 giải pháp để nâng cao chất lượng công tác GDMT của trong các trường THCS DTNT tỉnh Quảng Ngãi

Giải pháp 1:Nâng cao nhận thức của GV, HS và các lực lượng giáo dục về sự cần thiết của GDMT. Làm cho các thành viên của nhà trường, tùy theo vị trí công tác được giao, có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc GDMT cho HS trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, giúp các CBQL, GV, các lực lượng giáo dục trong nhà trường có sự quan tâm đầu tư cho giảng dạy và các hoạt động giáo dục. Mặt khác, giúp cho HS tự ý thức về BVMT. Để thực hiện giải pháp này, hiệu trưởng cần thường xuyên phổ biến và tổ chức học tập các Nghị quyết, văn bản, chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) và hướng dẫn của Sở GD&ĐT về công tác GDMT cho HS trong giai đoạn mới. Tổ chức hội nghị chuyên đề về GDMT, thực hiện việc lồng ghép các nội dung GDMT vào bộ môn, đổi mới phương pháp giảng dạy, tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Làm cho đội ngũ GVCN thấy được trách nhiệm của họ trong việc theo dõi quá trình học tập và hoạt động ngoài giờ lên lớp của HS.

Thông qua hoạt động giáo dục chính khóa, cần có kế hoạch theo dõi sự tiến bộ về học tập cũng như quản lý tốt hoạt động của HS về GDMT. Hiệu trưởng có kế hoạch tổ chức các buổi thảo luận, chuyên đề; tổ chức các hội thi về BVMT; xây dựng các tiêu chí thi đua về BVMT và thực hiện thường xuyên để nâng cao nhận thức về MT và BVMT cho HS. HT phải cùng với lãnh đạo chính quyền địa phương thực hiện công tác phối hợp tuyên truyền, tổ chức để cha mẹ HS thực hiện tốt trách nhiệm, nghĩa vụ của họ với MT, BVMT. HT cũng chỉ đạo HS tham gia những hoạt động vệ sinh MT ở nhà trường, ở địa phương. Ngoài ra, HT cũng cần phối hợp với cộng đồng dân cư xung quanh trường giữ vệ sinh MT.

Giải pháp 2:Thực hiện có hiệu quả các chức năng quản lý hoạt động GDMT. Thực hiện đồng bộ, hợp lý và có hiệu quả các chức năng quản lý của HT từ việc xây dựng kế hoạch; tổ chức thực hiện; giám sát, chỉ đạo; kiểm tra, đánh giá nhằm đảm bảo việc thực hiện công tác GDMT cho HS các trường THCS DTNT đạt kết quả cao. Cách thực hiện giải pháp này là căn cứ vào nhu cầu thực tế của nhà trường, cần xây dựng và thực hiện có hiệu quả các chức năng quản lý trong công tác GDMT, cụ thể như xây dựng kế hoạch GDMT cho năm học; tổ chức hoạt động GDMT cho HS; quản lý hoạt động của HS về hoạt động GDMT

Giải pháp 3:Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy GDMT ở trường THCS DTNT. Mục tiêu của giải pháp này là nhằm giúp đội ngũ giáo viên có năng lực vững vàng đáp ứng những yêu cầu trong lĩnh vực hoạt động GDMT cho HS trường THCS ở địa bàn nghiên cứu.

Để thực hiện giải pháp này, hiệu trưởng cần đặc biệt chú trọng đến công tác bồi dưỡng về chuyên môn, phương pháp và kỹ năng GDMT cho đội ngũ giáo viên; giới thiệu giáo viên tham gia các lớp tập huấn chuyên đề; tổ chức hội thảo, hội nghị về chủ đề GDMT; tăng cường các tài liệu, giáo trình, phương tiện dạy học hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho GV giảng dạy, nghiên cứu về chủ đề GDMT; tổ chức giao lưu giữa đội ngũ GV của trường với các trường THCS trên địa bàn.

Giải pháp 4:Tổ chức các điều kiện hỗ trợ công tác GDMT. Tổ chức tốt các điều kiện hỗ trợ góp phần nâng cao hiệu quả công tác GDMT cho học sinh. Trong quá trình thực hiện, hiệu trưởng cần tổ chức các chế định về GDMT; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức GDMT cho cán bộ, giáo viên; đầu tư tài chính, cơ sở vật chất cho công tác GDMT; tổ chức, xây dựng môi trường sư phạm “xanh - sạch - đẹp”; tăng cường mối liên kết của nhà trường với các tổ chức ngoài nhà trường.

Giải pháp 5:Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá và khen thưởng về công tác GDMT, BVMT. Đây được xem là giải pháp chấn chỉnh và kích thích nhằm phát hiện sớm các sai lệch trong quá trình thực hiện kế hoạch nhằm đánh giá những ưu điểm, thiếu sót trong quá trình GDMT của các trường THCS DTNT; đồng thời phát hiện những nhân tố mới; phát hiện những khả năng sáng tạo của cán bộ, giáo viên trong quá trình giảng dạy để kịp thời bồi dưỡng hoặc điều chỉnh về mặt nhân sự. Trong kiểm tra, nên có phần đánh giá riêng nội dung tích hợp về GDMT để có cơ sở tìm ra những thiếu sót, yếu kém trong nhận thức của HS.

Cả 5 giải pháp trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động, hỗ trợ cho nhau. Vì vậy, cần phải thực hiện đồng bộ, phối hợp chặt chẽ với nhau nhằm tạo điều kiện để các lực lượng tham gia trực tiếp vào việc GDMT mọi lúc, mọi nơi.

Để kiểm chứng về tính hợp lý và tính khả thi của các giải pháp đề xuất, chúng tôi đã tiến hành trưng cầu ý kiến các CBQL, cán bộ chuyên môn có kinh nghiệm trong công tác quản lý và GV (tổng số 178 người). Kết quả khảo nghiệm cho thấy hầu hết các giải pháp đã được 56 % đối tượng đánh giá là hợp lý. Trong đó, giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá và khen thưởng về hoạt động GDMT, BVMT được cho có tính hợp lý và khả thi cao (81.5%). Điều này cho thấy giải pháp này là động lực để thực hiện tốt công tác GDMT trong thực tế nhà trường hiện nay.

5. Một số kiến nghị

Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo, hàng năm cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn GV, cán bộ quản lý về những chủ đề GDMT; có văn bản hướng dẫn đưa nội dung GDMT vào giảng dạy như là một nội dung giáo dục chính thống của các ngành học, cấp học; điều chỉnh các tiêu chí đánh giá giờ dạy, quan tâm đến tiêu chí dạy học lồng ghép, tích hợp; hướng dẫn cụ thể hơn về phương pháp kiểm tra, đánh giá; tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động GDMT ở các cấp học, bậc học; trước mắt, đưa nội dung GDMT vào công tác kiểm tra, đánh giá thi cử.

Đối với Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật; xây dựng các mô hình tự quản về BVMT; tổ chức các hoạt động chuyên đề; đẩy mạnh công tác xã hội hóa BVMT; đưa chương trình GDMT và BVMT vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; tăng cường năng lực quản lý nhà nước về BVMT.

Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Ngãi, cần xây dựng kế hoạch thường kỳ, chỉ đạo công tác GDMT và tổ chức bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý, giáo viên về GDMT; thành lập Ban chỉ đạo hoạt động GDMT ở từng cấp học, bậc học, từng đơn vị; tổ chức các cuộc thi về MT và BVMT trong HS và GV; tổ chức thao giảng, hội giảng trong toàn ngành về nội dung GDMT; đầu tư nguồn lực, tạo những điều kiện thuận lợi, động viên khen thưởng kịp thời về hoạt động GDMT.

Đối với giáo viên đang công tác tại trường PTDTNT, cần nhận thức GDMT là nhiệm vụ; thực hiện tích hợp, lồng ghép GDMT vào môn học; tích cực tự học, học hỏi đồng nghiệp để nâng cao tay nghề dạy học và kỹ năng GDMT cho HS; chăm lo rèn luyện đạo đức tư cách nhà giáo, phối hợp chặt chẽ với đồng nghiệp và lực lượng giáo dục khác để GDMT.

Đặc biệt, đối với hiệu trưởng các trường THCS DTNT, cần thường xuyên nâng cao nhận thức về GDMT cho cán bộ, GV, HS và các lực lượng giáo dục; tăng cường công tác tổ chức, chỉ đạo GDMT; tích cực xây dựng cảnh quan nhà trường; xây dựng tiêu chí thi đua và dành một khoản kinh phí cho công tác khen thưởng về GDMT.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ sách bồi dưỡng giáo viên về tích hợp bảo vệ môi trường trong các môn học, NXB Giáo dục, năm 2008.

2. Quốc hội, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005.

3.vi.wikipedia.org/wiki/ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt.


Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.