Giải pháp lưu giữ nguồn gen quý hiếm tại Lâm Đồng
I. Hiện trạng sản xuất hoa tại Đà Lạt
Đà Lạt từ lâu đã là vùng chuyên canh rau và một số hoa nổi tiếng trong cả nước. Với truyền thống đó, kỹ thuật của nhân dân trồng rau và hoa ở Đà Lạt khá cao.
Trong nền kinh tế thị trường có sức cạnh tranh mạnh như hiện nay, với nhu cầu của người tiêu dùng cũng như sự hình thành của các công ty sản xuất nước ngoài người dân Đà Lạt hiện nay đã chuyển một phần diện tích từ trồng rau sang trồng các loại hoa cắt cành có giá trị kinh tế cao. Sự chuyển đổi này là phù hợp với xu hướng phát triển của một thành phố nghỉ dưỡng và du lịch.
Trong thời gian gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế cũng như khoa học và kỹ thuật trên thế giới, người nông dân Đà Lạt đã dần tiếp cận và chuyển đổi nhanh chóng phương thức canh tác mới, thay thế phương thức canh tác truyền thống, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn để có thể đáp ứng được nhu cầu thưởng thức và tiêu dùng ngày càng cao của thị trường. Họ đã dần chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ sản xuất rau cải là chính sang sản xuất hoa cắt cành. Đây là một hướng đi đúng, mang lại hiệu quả kinh tế cao của đa số nông dân Đà Lạt. Thực tế cho thấy hiệu quả hiệu quả kinh tế của ngành trồng hoa cắt cành có giá trị cao hơn nhiều so với sản xuất rau truyền thống. Với những thuận lợi hiện có, người nông dân Đà Lạt đã nhanh chóng tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo để sản xuất các loại hoa chất lượng cao không thua kém sản phẩm hoa của các công ty nước ngoài. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế về mặt kỹ thuật để có thể cạnh tranh với sản phẩm của các công ty đó, đặc biệt là nguồn giống, phương thức bảo quản cũng như thị trường tiêu thụ hoa sau khi thu hoạch.
Hơn 10 năm trở lại đây với sự ra đời của Công ty hoa Hasfarm, người dân trồng hoa Đà Lạt đã và đang tiếp cận được các giống hoa mới và kỹ thuật canh tác hiện đại tạo ra nhiều chủng loại hoa đẹp, có giá trị kinh tế cao.
Theo số liệu thống kê của phòng Nông nghiệp Đà Lạt, sản lượng hoa cắt cành năm 2003 ước khoảng 300 triệu cành trong đó hơn phân nửa là hoa cúc (Chrysanthemum).
Về tình hình sản xuất: các loại giống hoa thương mại thường được nhân giống bằng phương pháp truyền thống như dâm cành hay tách chồi thân hoặc rễ. Các chương trình nhân giống hiện nay chú trọng đến việc cải thiện các đặc điểm khác nhau nhằm làm tăng giá trị của giống hoa ví dụ tăng tính đa dạng về màu sắc, kích thước, hình dáng cây và hoa cũng như những đặc tính thích nghi với các điều kiện sản xuất khác nhau.
Mặc dù trong các phương pháp chọn giống truyền thống đã đạt được một số đặc điểm mong muốn trên, tuy nhiên vẫn còn hạn chế vì nhiều lý do:
- Giới hạn về vốn gen;
- Giới hạn trong kỹ thuật lai xa do tính bất tương hợp về mặt di truyền hay do sự bất tương hợp do sự khác biệt về thể bội giữa các dòng bố mẹ;
- Những đặc điểm tính đồng nhất về mặt sinh trưởng, tính đồng bộ trong quá trình ra hoa đa gen (polygenic).
Tất cả các lý do trên cho thấy việc lai tạo hữu tính có thể làm thay đổi sự cân bằng mang tính nhạy cảm của các yếu tố quyết định sự sinh trưởng và phát triển của cây. Vì vậy, hiện nay nhiều nhà khoa học đang nỗ lực nghiên cứu nhằm khắc phục những hạn chế này thông qua các việc phát triển nghiên cứu các phương pháp chuyển gen khác nhau. Công nghệ sinh học bao gồm nuôi cấy mô, sinh học tế bào và sinh học phân tử là hướng có thể áp dụng một cách thuận lợi để phát triển những nguồn gen mới có khả năng theo kịp nhu cầu và thị hiếu của người trồng cũng như tiêu thụ hoa.
Từ những yêu cầu thực tế trên, hiện nay có rất nhiều nghiên cứu công nghệ sinh học mở rộng trên đối tượng hoa cúc như vi nhân giống, phương pháp tạo chồi bất định từ các nguồn mẫu cấy khác nhau hay thông qua phương pháp phôi sinh dưỡng, gây đột biến bằng các tác nhân khác nhau kết hợp với nuôi cấy mô thực vật,…
Tại Việt Nam việc phụ thuộc các giống nhập nội từ các công ty lớn hiện nay làm cho người sản xuất trong nước không theo kịp nhu cầu thực tế của thị trường. Đặc biệt là người sản xuất trong nước cũng không thể cạnh tranh được với các công ty nước ngoài đầu tư vào việc sản xuất hoa cúc không thể chủ động thay đổi giống. Mặt khác khi giống cúc được nhân giống theo phương pháp truyền thống một thời gian dài sẽ có chất lượng giảm hẳn do thoái hoá giống.
II. Vài suy nghĩ về phương pháp lưu giữ nguồn gen của hoa tại Đà Lạt
Giống là một khâu rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Công tác giống chủ yếu bao gồm các khâu thu thập nguồn gen, bảo quản quỹ gen, lai tạo, tuyển chọn, thử nghiệm giống và nhân giống. Nhiều khâu quan trọng của công tác giống chỉ có thể được thực hiện trong các phòng thí nghiệm đầy đủ tiện nghi, chỉ có công tác nhân giống là có thể được thực hiện một cách rộng rãi bởi các nhà sản xuất bằng các kỹ thuật khác nhau, bao gồm kỹ thuật truyền thống và kỹ thuật nuôi cấy mô.
Các giống hoa cắt cành hiện nay đang sản xuất tại Đà Lạt khá đa dạng, một số giống đã được những người yêu hoa nhập về và thuần hoá trước năm 1975 ví dụ hoa lan (Cymbidium.sp), Glayơn (Glaiolus.sp), hoa đồng tiền (Gerbera.sp), hoa hồng môn (Anthurium.sp), hoa cúc (Chrysanthemum.sp), cẩm chướng (Dianthus.sp), hoa hồng (Rosa.sp), loa kèn (Lilium.sp),… Việc nhân giống hoa trước đây chỉ dựa vào phương pháp nhân giống truyền thống: gieo hạt, giâm cành, chiết cành, ghép cành… được thực hiện từ lâu đời và đã giúp nhân được một lượng đáng kể giống cây trồng phục vụ sản xuất. Nhưng với đà phát triển nhanh chóng của nông nghiệp nói chung và nghề trồng hoa thương phẩm nói riêng, phương pháp này có nhiều hạn chế, đặc biệt là tốc độ nhân giống chậm, không đáp ứng kịp nhu cầu sản xuất và không giải quyết được triệt để tình trạng cây giống bị nhiễm bệnh, dẫn đến chất lượng thương phẩm không cao.
Các giống hoa đang canh tác lớn nhất là glayơn, hoa hồng, hoa cúc, hoa loa kèn, cẩm chướng,… Qua nhiều năm canh tác liên tục với cách nhân giống cổ điển, không được phục tráng nên hầu hết các giống này ngày càng bị thoái hóa, rất nhạy cảm với các nguồn bệnh, khả năng kháng bệnh thấp… do đó năng suất và chất lượng hoa không ổn định. Chính vì thế, việc chủ động nguồn giống hoa sạch bệnh cũng như cập nhật các hoa giống mới là hết sức cần thiết. Đây là công việc đòi hỏi các cơ sở nghiên cứu và đào tạo phải tích cực hơn nữa trong việc lai tạo, phát triển những giống cây mới phục vụ cho nhu cầu sản xuất ngày một cao.
Ở Việt Nam đã hình thành rất nhiều phòng thí nghiệm nuôi cấy mô của Nhà nước và tư nhân, giải quyết một cách có hiệu quả công tác giống cây trồng. Tại Đà Lạt, các phòng thí nghiệm nuôi cấy mô của Phân viện sinh học Đà Lạt, Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, Trung tâm Khoai tây, rau và hoa Đà Lạt, Trường Đại học Đà Lạt và một số phòng thí nghiệm nuôi cấy mô tư nhân khác đã và đang nhân được nhiều loài hoa quý phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển nghề trồng hoa tại địa phương như Phalenopsis, hoa cúc, hoa sao tím, hoa kiết tường, hoa glayơn, hoa lys các loại,…
Tuy nhiên vấn đề chất lượng cây giống tại các cơ sở sản xuất nhà nước cũng như tư nhân vẫn chưa được giám sát, và còn nhiều vấn đề cần phải bàn. Đề nghị cần xem xét lại nhiều vấn đề ví dụ cây nuôi cấy mô hiện nay tại các cơ sở sản xuất đã thực sự bảo đảm là sạch bệnh hay chưa. Để có cây con sạch virut và các nguồn bệnh lây nhiễm khác cần phải có kỹ thuật cao, đồng thời để kiểm định nguồn bệnh trên cây con cần phải được tiến hành tại các phòng thí nghiệm có đủ phương tiện và chuyên viên làm nghề mới có thể thực hiện được. Nên chăng tỉnh Lâm Đồng cần có định hướng chung trong việc quy định một số cơ sở sản xuất nghiên cứu chuyên trách sản xuất cây sạch bệnh cho các cơ sở sản xuất giống khác trong tỉnh. Đồng thời cần có một trung tâm thẩm định chất lượng cây giống có đủ thẩm quyền cấp giấy chứng nhận giống sạch bệnh cho các cơ sở sản xuất với những quy định rõ ràng về các tiêu chí cây giống, nhãn hiệu cơ sở sản xuất giống để có thể tạo một nền sản xuất bền vững và hiệu quả.
Bên cạnh vấn đề chất lượng cây giống, đề nghị tỉnh cần tạo điều kiện để có một số trung tâm chuyên nghiên cứu lưu trữ nguồn giống sạch bệnh và bảo tồn nguồn gen quý hiếm. Việc làm này sẽ tránh được sự mất mát các giống hoa đã và đang xảy ra như hiện nay, đồng thời cũng là một nguồn nguyên liệu vô giá cho công tác chọn giống, dự phòng một tiềm lực đủ khả năng chủ động nguồn giống cũng như tạo thế thích nghi cao với thị trường hiện nay.
Nguồn: Thông tin khoa học và công nghệ số 4 - 2005, tr 33, 34







