Giá trị Thăng Long
Về việc Lý Công Uẩn rời đô từ Hoa Lư ra Đại La, Đại Việt sử ký toàn thưchép: “Thu thất nguyệt đế tự Hoa Lư thành tỷ đô vu kinh phủ Đại La thành, tạm bạc thành hạ, hoàng long hiện ư ngự chu. Nhân cỉa kỳ thành viết Thăng Long thành”.
Dịch là: “Mùa thu, tháng 7, vua dời đô từ thành Hoa Lư đến thành Đại La của Kinh Phủ. Lúc tạm đỗ dưới thành, rồng vàng hiện ra ở thuyền ngự. Nhân đó bèn đổi tên thành là thành Thăng Long.
Đại Việt sử ký toàn thưchép “rồng vàng hiện ra ở thuyền ngự” (hoàng long hiện ư ngự chu). Như vậy, ở đây (cho dầu chỉ là tưởng tượng) chỉ có rồng “hiện ra” chứ không có rồng nào “bay lên” cả. Từ việc rồng hiện ra tới việc đổi tên thành có liên quan với nhau, cho nên “Thăng Long” ở đây có lẽ không nên cắt nghĩa là “rồng bay lên”. Chú thích (1) của sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục(1) ghi chú: “Chữ Thăng Long đời Lý là “Rồng lên” khác nghĩa với chức “Thăng Long” thời Gia Long là “Thịnh vượng”. “Rồng lên” với “Thịnh vượng” kể ra cũng chẳng khác gì nhau mấy. Bởi vì “Rồng lên” có nghĩa là thịnh vượng chứ còn gì nữa? Nhưng ở đây không phải “Rồng lên” mà chỉ “hiện ra” mà thôi. Thuyền của vua đương nhiên gọi là thuyền rồng, thuyền đậu dưới thành Đại La, nếu không phải là Rồng “hiện ra” thì còn là hình tượng gì đẹp hơn nữa? Như vậy, rồng đã từ Hoa Lư “hiện ra” ở Đại La. Phải chăng Lý Thái Tổ cảm thấy việc dời đô ứng với một quẻ trong Kinh Dich: “Hiện long tại điền, lợi kiến tại nhân” (2). Nghĩa là: “Rồng hiện ra trên mặt đất, (đó là) điều kiện thuận lợi để xuất hiện vĩ nhân” (3).
“Rồng hiện” và “Rồng lên” hay “Rồng bay” đều trong quá trình thăng tiến cả. Tuy nhiên, trong tính liên tục có tính gián đoạn, nếu không thì trở thành đốt cháy giai đoạn. Trong Chiếu dời đô, Lý Thái Tổ đã nói rõ việc dời đô từ Hoa Lư ra Đại La có nghĩa là bước đầumở ra trang sử mới. Trước hết, Lý Thái Tổ phê phán kinh đô Hoa Lư từ đời Đinh, Lê không còn thích hợp nữa, ấy vậy mà hai triều Đinh, Lê không biết “tuỳ thời nhi biến”. Sau đó Lý Thái Tổ nói đến cái lợi của kinh đô mới. Ít ra có 5 điều lợi: thứ nhất là vị trí “ở vào nơi trung tâm của trời đất”. Thứ hai là phương hướng “đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây”. Thứ ba là địa thế “thuận tiện về hình sông thế núi” (tiện giang sơn hướng bội chi nghi). Thứ tư có lợi về kinh tế “đất rộng mà bằng, cao mà thoáng”. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi”. Thứ năm là về chính trị (đương nhiên cũng do bốn điều lợi trên đem lại) “tính kế muôn đời cho con cháu”.
Lý Thái Tổ vừa phê phán thái độ bảo thủ củ hai triều đại Đinh, Lê, vừa “cảnh giác” với xu hướng tuỳ tiện “cấp tiến” thiếu thận trọng. Cho nên đã lấy gương “Tam đại” dời đô làm mẫu mực, lấy bài học thực tế về hậu quả của hai triều đại trước để răn đe “khiến cho triều đại không được lâu bền, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, muôn vật không thích nghi”. Cuối cùng, việc dời đô là tất yếu, hoàn toàn không phải là việc tuỳ tiện chút nào. “Trẫm rất đau lòng về việc đó, cho nên không thể không dời đô” (Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỷ).
Lý Thái Tổ tư chất vốn thông minh, đến nỗi Sư Vạn Hanh thoạt nhìn đã biết ngay là con người “xuất chúng” (phi thường nhân, Đại Việt sử ký toàn thư), cho nên dời đô là việc tính toán rất kỹ lưỡng. Có lẽ Lý Thái Tổ rất tinh thông về Dịch học, cho nên gặp dịp thường hay dựa vào Dịch để suy đoán. Đại Việt sử ký toàn thưcó chép về nhà vua “bói xin âm dương” (4) khi đến danh lam “núi lạ sông đẹp”, “nhân kiệt địa linh”. Tên gọi những công trình kiến trúc ở Thăng Long, ít nhiều đều có liên quan đến Kinh Dịch như “dựng điện Càn nguyên làm chỗ coi chầu”, “cửa Phi long”, “điện Long an, Long thụy”, “điện Nhật quang, Nguyệt minh” (5)… Số lượng “điện” xây dựng ở Thăng Long là 8 (Càn nguyên, Tập hiền, Giảng vũ, Cao minh, Long an, Long thụy, Nhật quang, Nguyệt minh). Chia đất nước làm 24 lộ (8 quẻ đơn, mỗi quẻ có 3 hào, 8x3=24)… Phải chăng những điều đó liên quan đến Bát quái? Nếu vậy thì Lý Công Uẩn xe kinh đô khi còn ở Hoa Lư tương ứng với hoà Sơ cữu ở quẻ Càn “Tiềm long vật dụng”, nghĩa là “Rồng còn ẩn mình dưới nước chưa thi thố tài năng được”. Từ chỗ “còn ẩn mình”, “chưa thi thố” ở Hoa Lư đến chỗ “hiện ra” ở Đại La (Thăng Long) là giai đoạn tiếp theo lôgich của quá trình phát triển lượng chất. Vì vậy nên sau gần 50 năm đã định đô ở Thăng Long thì không phải lúc “Rồng hiện ra” nữa phải là “Rồng lên” hay “bay lên” mới phù hợp. Cho nên năm Quý Tỵ (1053), dưới triều vua Lý Nhân Tông có “Rồng vàng hiện ra”, mọi người đều mừng, chỉ có sư Pháp Ngữ nói “Rồng bay lên trời, bây giờ lại hiện ra ở dưới, đó là điều chẳng lành” (6). Vì vậy nên “Rồng hiện” hay “Rồng bay” đều là quá trình phát triển đi lên cả, tuy nhiên giai đoạn nào có giai đoạn nấy chứ không thể một bước thăng thiên được. Nhận đúng tính chất của giai đoạn phát triển nên chính sách của Lý Thái Tổ cực kỳ mềm dẻo, không bảo thủ hữu khuynh mà cũng không tả khuynh, đốt cháy giai đoạn.
Về quốc phòng, kinh đô Thăng Long, vừa có thể tiến vừa có thể lùi, vừa thực vừa hư. Cho nên bao nhiều cuộc xâm lăng của quân giặc ở thời Lý Trần cuối cùng cũng không thể chiếm nổi Thăng Long. Sau này Hồ Quý Ly dời đô về Thanh Hoá, thiên về phòng thủ là sai lầm. Lý Thái Tổ không giải quyết quốc phòng tách rời với kinh tế. Điều then chốt đó đã được nói rất rõ trong Chiếu dời đô. Hơn nữa, lần đầu tiên trong lịch sử, chính sách “ngụ binh ư nông” chính thức (7) từ Thăng Long đưa ra được thực hiện rất linh hoạt. Ngô Thì Sĩ trong Việt sử tiêu ánnhận xét rằng “chế độ binh lính của nhà Lý… mỗi tháng lên cơ ngũ một lần, gọi là đi canh, hết hạn canh lại về quê hương làm ruộng, quân không phải cấp lương… không có phí tổn nuôi quân mà lại có hiệu quả dụng binh, quả là chính sách hay”. Theo khảo cứu của Lê Quý Đôn, “binh pháp của nhà Lý nước ta được triều Tống Trung Quốc” bắt chước” và ở “triều Lý… đánh đâu được đấy là vì thế ấy” (8). Sở dĩ quốc phòng - kinh tế thực hiện linh hoạt, hiệu quả như vậy là nhờ ở sự chỉ đạo của quan điểm chính trị “lấy dân làm gốc”. Ở thời buổi “Rồng hiện”, thông thường ít có chính quyền nào lại không ý thức được điều đó. Tuy nhiên, triều nhà Lý, nhất là Lý Thái Tổ - người sáng lập ra triều Lý - có lẽ là vị vua hiểu rõ điều này nhất trong các triều đại vua chúa ở nước ta. Trong Chiếu dời đôchỉ có khoảng 200 chữ mà Lý Thái Tổ 3 lần đề cập đến “dân” và “bách tính”. Một trong lý do quan trọng nhất để dời đô cũng là vì dân. Nhà vua vừa mới dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, “chân ướt chân ráo” đã “đại xá thuế khoá cho thiên hạ 3 năm, những người mồ côi, goá chồng, già yếu, thiếu thuế đã lâu, đều tha cho cả” (9). Những năm sau đó, Thái Tổ thường xuyên thực hiện chính sách miễn tô thuế cho dân. Năm Bính Thìn (1016) “xóa tô thuế cho thiên hạ 3 năm”, năm Đinh Tỵ (1017) “xuống chiếu tha tô ruộng cho thiên hạ”, năm Mậu Ngọ (1018) “xá một nửa tô ruộng cho thiên hạ”… Lý Thái Tông đã kế tục truyền thống quốc sách “lấy dân làm gốc”. Hình như chưa có chuyện ông vua nhân từ nào trong lịch sử phong kiến lại trở thành điển hình như Lý Thánh Tông: “Trẫm ở trong cung nào lò sưởi ngự, nào áo lót cầu có rét như thế này, nghĩ đến người tù giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa biết rõ ngay gian, mà ăn không no bụng, áo không kín mình, gió rét khổ thân, hoặc có kẻ chết không đáng tội, Trẫm rất xót thương. Vậy hạ lệnh cho hữu ty phát chăn chiếu và mỗi ngày hai lần phát cơm” (10). Hoặc khi xử kiện ở điện Thiên Khánh, nhà vua chỉ vào công chúa Động Thiên đứng đầu bên cạnh, bảo với ngục lại rằng: “Ta yêu con ta cũng như lòng ta làm cha mẹ dân, dân không biết mà mắc vào hình pháp, ta rất lấy làm thương. Từ nay về sau, không cứ gì tội nặng hay nhẹ, đều nhất luật khoan giảm? (11)”. Kể ra làm “cha mẹ” dân một cách thực sự thì cũng chẳng dễ gì, hơn là làm “đầy tớ” dân chút nào. Chính sách “lấy dân làm gốc” này, mãi đến đời Trần còn được Trần Hưng Đạo củng cố thêm lần nữa đối với Anh Tông trước khi qua đời: “Vả lại khoan thư sức dân để làm kế sâu bền gốc rễ, đó là thượng sách để giữ nước” (12). Đó cũng chính là chỗ yếu nhất của Hồ Quý Ly. Hồ Quý Ly là nhà cải cách kinh tế đại tài, nhưng kinh tế - quốc phòng của ông lại không dựa vào cơ sở “lấy dân làm gốc”. Sai lầm của Hồ Quý Ly là tin tưởng ở thành Đa Bang hơn là tin tưởng ở bức thành “lòng dân”. Đó cũng chính là bài học tâm đắc nhất mà Nguyễn Trãi lần đầu tiên ra mắt Lê Lợi. Trong thời kỳ “Rồng hiện”, ngoài kinh tế - quốc phòng “lấy dân làm gốc” ra, Lý Thái Tổ còn thực hiện chính sách văn hoá “hoà nhi bất đồng”. Trong khu vực “văn hoá Nho giáo”, Nhật Bản khác với Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên ở chỗ Nhật Bản tiếp thu Nho giáo trước sau cũng chỉ như là một “quan niệm” chứ không trở thành “cơ chế” hành chính bắt buộc. Nho, Đạo, và Phật du nhập vào Việt Nam tính tới đời Lý đã hơn 1000 năm. Tuy nhiên suốt 3 triều đại đầu của triều Lý, từ Lý Thái Tổ, Thái Tông đến Thánh Tông, cả Nho lẫn Phật, Đạo cũng đều tồn tại như một “quan niệm”. Có nghĩa là hơn 60 năm của thời kỳ “Rồng hiện”, ba trào lưu tư tưởng ngoại nhập đó không bắt buộc ai phải theo cả. Vào cuối đời Lý Thánh Tông (1070), Văn Miếu mới được xây dựng ở Thăng Long và 5 năm sau đó (1075), vua Nhân Tông lần đầu tiên mở khoa thi chọn nhân tài trong lịch sử nước ta. Nghĩa là đến bây giờ từ “quan niệm” đã trở thành “cơ chế” bắt buộc. Tuy nhiên mãi đến năm Đinh Mùi (1247) đời Trần, nhà nước vẫn còn tổ chức thi “Tam giáo” (13). Như vậy có nghĩa là hơn 200 năm sau khi dời đô ra Thăng Long, các trào lưu tư tưởng ngoại nhập vẫn chưa thật sự bước vào “chung kết”… Ấy vậy, nhưng chính thời kỳ Lý Trần lại là thời kỳ mà bản sắc văn hoá xem chừng lại có phần “đậm đà” hơn cả. Lê Quý Đôn nhận xét rằng: “Nước ta, hai triều nhà Lý, nhà Trần, ngang vào khoảng triều nhà Tống, nhà Nguyên ở Trung Quốc. Lúc ấy tinh anh, nhân tài, phong cách văn chương không khác gì Trung Quốc… Văn thơ nhà Lý lời biền ngẫu bóng bẩy đẹp đẽ giống thể văn đời Đường. Đến thời nhà Trần thì lưu loát chỉnh tề, giống khẩu khí nhà Tống” (14). Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng cho rằng “nước ta sau lúc độc lập, trong khoảng trên dưới 300 năm (từ Đinh đến Trần), về học hành thi cử, từ trên đến dưới, đối với hai nhà giáo tổ (Khổng, Phật), vẫn sùng bái như nhau, không phải thiên về một đạo Nho, tức là có cái vẻ tín giáo tự do như vậy. Tín giáo được tự do, nên tư tưởng có chiều phát triển; trong lịch sử nước Nam ta về đời Trần, không những võ công trác tuyệt (đánh đuổi quân Hồ Nguyên), mà nói đến học giới, có vẻ cao hơn Tống Nho nhiều…” (15). Theo Huỳnh Thúc Kháng, sở dĩ có được “đặc sắc” nói ở trên “là vì: 1) Nho, Phật, Đạo thịnh hành, không tách riêng độc chiếc Nho học làm như tôn giáo; 2) Lối học khoa cử còn đơn giản, chưa in sâu vào cái não của người mình, mà ngoài khoa cử ra còn có con đường tấn thân khác. Bởi thế nên tư tưởng còn tự do, mà nhân tài cũng đủ cả các vẻ. Nếu cứ thế mà tiến lên thì có lẽ không nhường gì cho học giới Nhật Bản” (16). Như vậy, xây dựng Quốc Tử giám, thực hiện khoa cử để kén chọn nhân tài, có cái hay mà cũng có cái dở. Như trên đã nói, Nho giáo vào Nhật Bản, trước sau vẫn tồn tại như là một “quan niệm” và hơn 200 năm sau khi kinh đô Thăng Long xuất hiện, Nho giáo vẫn tồn tại như một “quan niệm” chứ chưa trở thành “cơ chế” hành chính bắt buộc. Cho nên, muốn nói gì thì nói, đó cũng chưa là điểm đặc sắc của các triều đại tạo dựng ra kinh đô Thăng Long. Đến đời nhà Lê, Nho giáo được độc tôn, khoa cử thịnh hành. Mỗi thời có giá trị và đặc điểm riêng của nó, nhưng nếu vẫn giữ được phong cách của thời “Rồng hiện” thì chuyển sang thời kỳ “Rồng bay” chắc cũng chẳng khó gì. Sự ra đời của kinh đô Thăng Long thực ra không phải chỉ dựa vào “lòng dân” mà còn theo “ý trời” (thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí - Chiếu dời đô). “Ý trời”, nói cách khác, tức là hiện thực được “siêu việt hoá”. “Siêu việt hoá” để tạo lòng tin, có cái hay và cũng có cái không hay. Hàng nghìn năm đã trôi qua, ngày nay khoa học, công nghệ đã có bước tiến dài, tuy nhiên có ai dám nói chắc rằng ở thế kỷ XXI không còn chỗ cho những “siêu việt hoá” hiện đại tồn tại trên trái đất này? Điều mà người ta chấp nhận là “siêu việt hoá” chỉ là phương tiên, còn “lòng dân” mới là mục đích. “Siêu việt hoá” ở đây đã biến cái hiện thực thành cái thần thoại, đồng thời cũng biến cái thần thoại thành cái hiện thực. Thánh Gióng đánh giặc Ân, vừa là thần thoại vừa là hiện thực, Lê Lợi trả gươm vừa là thần thoại vừa là hiện thực và cuối cùng là Thăng Long cũng vừa là thần thoại vừa là hiện thực. Thế kỷ XXI có nhiều thời cơ nhưng cũng lắm thách thức. Không phải lúc nào cái hiện thực cũng là cái thần thoại. Hiện thực không thể biến thành thần thoại cũng như thần thoại không thể biến thành hiện thực nếu như lịch sử có những bước đi sai nhịp. Thăng Long và Hồ Gươm vẫn đang còn đó và đang chứng kiến những bước đi nghìn năm hiện thực - thần thoại của dân tộc Việt Nam. _________________ 1) Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia, Viện sử học, NXB Giáo dục, 1998, t. 1, tr. 285. 2) Kinh Dịch, quẻ Càn, hào cữu nhị. 3) Ngô Tất Tố dịch: “Rồng hiện ở ruộng, lợi về sự thấy người lớn” (Kinh Dịch, NXB TP Hồ Chí Minh, 1991, tr 69). Nguyễn Hiến Lê dịch: “Rồng đã hiện ở cánh đồng, ra mắt đại nhân thì lợi” (Kinh Dịch, NXB TP Hồ Chí Minh, 1994, tr 189). 4) Đại Việt sử ký toàn thư, NXB KHXH, Hà Nội, 1972, tr 1, tr 196, Việt điện u linh, Đại Nam nhất thống chí, Sơn Tây tỉnh chí đều có ghi chép. 5) Sđd, tr 191. 6) Khâm định Việt sử thông giám cương mục, NXB Giáo dục, 1998, tr 1, 332. 7) Các triều đại trước đó như Đinh, tiền Lê cũng ít nhiều đề cập đến “Ngụ binh ư nông” nhưng chưa trở thành chính thống. 8) Vân Đài loạn ngữ, q 1. 9) Đại Việt sử ký toàn thư, NXB KHXH, Hà Nội, 1972, tr 1, 192. 10) Sđd, tr 229 - 230. 11) Sđd, tr 232. 12) Sđd, tr 2, 89. 13) Sđd, tr 2, 21: “Mùa thu tháng 8 thi các khoa thông tam giáo”. 14) Kiến văn tiểu lục, Thiên chương. 15) Mính viên Huỳnh Thúc Kháng, Lối học khoa cử và lối học của Tống Nho có phải là học đạo Khổng Mạnh không?, xem Phan Bội Châu toàn tập, NXB Thuận Hoá, Huế, 1970, tr 10, 419, 420. 16) Sđd, tr 421. Nguồn: Xưa và Nay, số 84 + 85, tháng 1, 2/2001, tr 10 - 13
|

Lý Thái Tổ tư chất vốn thông minh, đến nỗi Sư Vạn Hanh thoạt nhìn đã biết ngay là con người “xuất chúng” (phi thường nhân, Đại Việt sử ký toàn thư), cho nên dời đô là việc tính toán rất kỹ lưỡng. Có lẽ Lý Thái Tổ rất tinh thông về Dịch học, cho nên gặp dịp thường hay dựa vào Dịch để suy đoán. Đại Việt sử ký toàn thưcó chép về nhà vua “bói xin âm dương” (4) khi đến danh lam “núi lạ sông đẹp”, “nhân kiệt địa linh”. Tên gọi những công trình kiến trúc ở Thăng Long, ít nhiều đều có liên quan đến Kinh Dịch như “dựng điện Càn nguyên làm chỗ coi chầu”, “cửa Phi long”, “điện Long an, Long thụy”, “điện Nhật quang, Nguyệt minh” (5)… Số lượng “điện” xây dựng ở Thăng Long là 8 (Càn nguyên, Tập hiền, Giảng vũ, Cao minh, Long an, Long thụy, Nhật quang, Nguyệt minh). Chia đất nước làm 24 lộ (8 quẻ đơn, mỗi quẻ có 3 hào, 8x3=24)… Phải chăng những điều đó liên quan đến Bát quái?
Về quốc phòng, kinh đô Thăng Long, vừa có thể tiến vừa có thể lùi, vừa thực vừa hư. Cho nên bao nhiều cuộc xâm lăng của quân giặc ở thời Lý Trần cuối cùng cũng không thể chiếm nổi Thăng Long. Sau này Hồ Quý Ly dời đô về Thanh Hoá, thiên về phòng thủ là sai lầm. Lý Thái Tổ không giải quyết quốc phòng tách rời với kinh tế. Điều then chốt đó đã được nói rất rõ trong Chiếu dời đô. Hơn nữa, lần đầu tiên trong lịch sử, chính sách “ngụ binh ư nông” chính thức (7) từ Thăng Long đưa ra được thực hiện rất linh hoạt. Ngô Thì Sĩ trong Việt sử tiêu ánnhận xét rằng “chế độ binh lính của nhà Lý… mỗi tháng lên cơ ngũ một lần, gọi là đi canh, hết hạn canh lại về quê hương làm ruộng, quân không phải cấp lương… không có phí tổn nuôi quân mà lại có hiệu quả dụng binh, quả là chính sách hay”. 






