Gia nhập WTO: Ngành thủy sản chống chọi thế nào trên sân nhà?
Tâm lý “sính” ngoại!
Ông Ngô Phước Hậu, Chủ tịch HĐQT Công ty Xuất nhập khẩu Thuỷ sản An Giang (Agifish) thừa nhận, tình trạng bỏ ngỏ thị trường nội địa của các doanh nghiệp dẫn đến việc sản phẩm ngoại ngày càng tràn vào với những chủng loại phong phú. Tuy nhiên, cũng không thể chỉ trách doanh nghiệp bởi ngay từ đầu ngành thuỷ sản đã xác định lấy xuất khẩu làm mũi nhọn đột phá. Khi đã xây dựng được thị trường xuất khẩu - một công việc không hề dễ dàng - doanh nghiệp dễ tập trung vào xây dựng thương hiệu và tên tuổi để tạo uy tín và tăng lợi nhuận mà quên mất thị trường trong nước.
Trên thực tế, ngay cả các cơ quan quản lý cũng không có định hướng nên người tiêu dùng trong nước nhiều khi muốn dùng sản phẩm trong nước... cũng không dễ dàng. Chẳng hạn như cá basa và cá tra, thời gian đầu các công ty chỉ hướng đến xuất khẩu, người tiêu dùng muốn dùng thử cũng khó kiếm. Thêm vào đó là tâm lý “sính” ngoại đã khiến sức mua hàng thuỷ sản Việt Nam bị hạn chế. Cơ cấu hàng thuỷ sản thường chia làm 3 loại: Tươi sống, đông lạnh và chế biến; trong đó hàng đông lạnh là thế mạnh của các doanh nghiệp, nhưng tập quán của người tiêu dùng lại là hàng tươi sống. “Tập quán tiêu dùng và sức mua thấp khiến chúng tôi chưa mấy mặn mà với thị trường trong nước” - đại diện một doanh nghiệp cho biết.
Ngoài những lý do trên, hầu hết các doanh nghiệp đều cho rằng, cơ sở hạ tầng và điều kiện lưu thông phân phối yếu kém cũng cản trở phát triển thị trường trong nước. Gần đây, một số siêu thị đầu tư xây dựng các kho lạnh, bến bãi để vận chuyển và bảo quản hàng đông lạnh, song yêu cầu thực tế lớn hơn rất nhiều. Nhiều ý kiến cho rằng, thị trường nội địa chỉ phát triển được nếu cơ sở hạ tầng cũng được đầu tư phát triển tương xứng.
Có thể mất cả chì lẫn chài
Hàng thuỷ sản ngoại nhập đến nay được nhận định là chưa ảnh hưởng gì tới thị trường nội địa. Theo Bộ trưởng Bộ Thuỷ sản Tạ Quang Ngọc, việc nhiều nguồn thuỷ sản ngoại tham gia đã làm thị trường trong nước phong phú thêm mặt hàng, có nhiều cơ hội cho người tiêu dùng chọn lựa. Ngoài ra, các dòng sản phẩm ngoại sẽ tạo ra cạnh tranh, làm cho các doanh nghiệp phải điều chỉnh phương pháp nuôi trồng và sản xuất cho phù hợp. Trong kế hoạch 2006-2010, Bộ sẽ nghiên cứu thị trường nội địa theo hai góc độ là nhu cầu thực tế của thị trường và đảm bảo an ninh lương thực.
Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu ngành thuỷ sản đạt 2,65 tỷ USD, tăng 10,38% so với năm 2004. Hàng thuỷ sản Việt Nam đã có mặt ở 105 nước và vùng lãnh thổ; trong đó thị trường Mỹ, Nhật, EU chiếm trên 69,8% giá trị và 55,8% lượng hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, đây cũng là những thị trường đòi hỏi rất khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm. Vụ cá tra - basa Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ bị nghi ngờ sử dụng dư chất kháng sinh bất hợp pháp vừa qua là một ví dụ điển hình. Ngư dân thắt ruột nhìn cảnh cá bị bán tống bán tháo với giá rẻ trong khi doanh nghiệp đành phải xuất sang những thị trường “dễ dãi” hơn do bị mất uy tín.
Vì quyền lợi người tiêu dùng, bản danh sách các chất kháng sinh bị cấm sử dụng càng dài, trong khi khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam còn thấp. Các chuyên gia cho rằng, sản xuất kinh doanh thuỷ sản đã đến lúc không chỉ trông chờ vào khai thác tự nhiên, mà cần có đầu tư đồng bộ. Gia nhập WTO, thị trường Việt Nam sẽ phải đón nhận sự tiến công ào ạt của hàng hoá nhiều nước với lợi thế mẫu mã đẹp, giá cả phải chăng, chất lượng ổn định. Chính vì vậy, việc xây dựng một chiến lược kinh doanh ngay từ thị trường nội địa của các doanh nghiệp thuỷ sản cần được làm ngay nếu chần chừ thì e rằng quá muộn. Quan trọng hơn, các doanh nghiệp cần liên kết với nhau để đầu tư cho thị trường nội địa, bởi đây là một thị trường còn rất nhiều tiềm năng. Đừng để đến lúc “mất cả chì lẫn chài” rồi mới thấy tiếc...
Nguồn: Kinh tế nông thôn, số 33 (519), 14/8/2006








