Ghép tế bào gốc trị bệnh nan y: “Thuốc tiên” cho bệnh nhân bỏng và tiểu đường
Vết thương lâu lành là nỗi ám ảnh lớn của nhiều bệnh nhân bị bỏng và tiểu đường, nhất là khi chúng nằm ở vị trí tì đè như gan bàn chân, lưng, khuỷu tay... Công nghệ ghép tế bào gốc đã góp phần làm giảm gánh nặng này cho người bệnh.
Năm 2004, PGS.TS Phan Toàn Thắng và các nhà khoa học thuộc trường Đại học quốc gia Singapore đã thành công trong việc xác định và phân lập tế bào gốc trung mô và biểu mô từ màng dây rốn. Công nghệ này đã được công nhận bản quyền trên thế giới (xem thêm KH&ĐS số 61 năm 2006). Nguồn tế bào gốc này có ưu điểm: không vi phạm y đức, không gây tử vong cả mẹ và con, nguồn cung cấp không hạn chế, có thể bảo quản và sử dụng lâu dài, thu thập được lượng tế bào lớn… Và gần như ngay sau đó, từ giữa năm 2005, Khoa Đông y thực nghiệm, Viện Y học cổ truyền TW, phối hợp với Khoa Bỏng, Bệnh viện Xanhpôn Hà Nội sử dụng phương pháp ghép tế bào gốc từ màng dây rốn vào điều trị vết thương cho bệnh nhân bỏng và vết loét mạn tính trên bệnh nhân tiểu đường
Bà Lê Thị Minh Thu, 62 tuổi, ở ngõ Quan Thổ I, Đống Đa, Hà Nội cũng là một trong những bệnh nhân được điều trị lành vết thương nhờ ghép tế bào gốc từ màng dây rốn. Bà là bệnh nhân tiểu đường từ lâu và có vết loét (do bỏng bô xe máy) ở gan chân phải to bằng lòng bàn tay, 6 năm trời không liền. Trước khi đến với phương pháp ghép tế bào gốc, bà đã được điều trị bằng ghép vạt da kiểu ý nhưng không thành công vì vạt da ghép không bám sống và bà còn phải mang thêm vết thương mất da ở cẳng chân trái. Lúc này, vết loét ở gan bàn chân đã tạo thành hố, luôn chảy nước khiến bà Thu đau nhức, đi lại khó khăn.
![]() |
Nhờ ghép tế bào gốc, vết loét ở gan bàn chân của bà Thu giờ chỉ còn bằng đồng xu. |
Thực chất của trị liệu tế bào gốc là cung cấp nguyên liệu tế bào, cung cấp một số chất chế tiết có lợi như các chytokine, protein… thúc đẩy quá trình liền vết thương, để hàn gắn những thương tổn cơ quan tổ chức không có khả năng hồi phục được bằng phương pháp thông thường. ThS Tuấn cho biết, hiện tại các bác sĩ của Phòng Đông y thực nghiệm đã nuôi cấy, lưu giữ được một số lượng lớn tế bào gốc từ màng dây rốn và sẵn sàng đối phó với nhiều vết loét phức tạp. Tuy nhiên, do các bệnh nhân chưa có thông tin về phương pháp điều trị mới này nên nguồn tế bào gốc quý giá này hiện vẫn chưa được sử dụng rộng rãi để hỗ trợ những bệnh nhân có vết thương. Về chi phí điều trị, hiện tại bệnh nhân chỉ phải chi trả tiền ăn ở, còn toàn bộ kinh phí điều trị bằng phương pháp mới này đã được trích từ kinh phí đề tài nghiên cứu. Được biết, ngoài khoảng 10 bệnh nhân bỏng và tiểu đường, các bác sĩ đã điều trị cho khoảng 20 trường hợp muốn khắc phục vết nhăn, lõm trên mặt do tuổi tác.
Tế bào gốc là loại tế bào đa dạng có khả năng tự tái tạo không giới hạn và có thể biệt hoá thành nhiều loại tế bào hoặc mô khác nhau trong những điều kiện sinh lý/thực nghiệm nhất định. Có thể lấy tế bào gốc từ nhiều nguồn khác nhau: tế bào gốc phôi thai, tế bào gốc trưởng thành trong tuỷ xương, từ mô mỡ, lớp hạ bì và từ máu cuống rốn. Trong đó, các tế bào gốc phôi thai và tế bào gốc trưởng thành trong tuỷ xương có khả năng biệt hoá đa dạng hơn cả, nhưng quá trình ứng dụng thực tế lại gặp phải vấn đề y đức và kỹ thuật. Việc can thiệp để lấy tủy xương cũng là một thủ thuật nặng vì phải sử dụng kim sinh thiết, cần gây tê tại chỗ, thậm chí phải gây mê toàn thân.
Vũ khí chống bệnh tim mạch, ung thư, tổn thương giác mạc
Các nhà khoa học ở Trường Đại học Y Hà Nội cũng đang khởi động đề tài nghiên cứu ghép tế bào gốc điều trị các bệnh tim mạch, cơ quan tạo máu và thị giác ở người.
Theo TS Tạ Thành Văn, Phó chủ nhiệm đề tài, theo kế hoạch, đề tài sẽ được chính thức thực hiện từ tháng 12/2006 và kéo dài trong 3 năm. Tuy nhiên, ghép tế bào gốc chỉ thực sự mới trong điều trị các bệnh tim mạch và thị giác, còn trong điều trị các bệnh có liên quan đến cơ quan tạo máu, phương pháp này đã được ứng dụng từ nhiều năm nay ở Việt Nam. Cụ thể, từ năm 2003, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đã điều trị cho nhiều bệnh nhân ung thư bằng cách ghép tế bào gốc lấy từ tuỷ xương. Quá trình điều trị là phân lập tế bào gốc trưởng thành trong máu bệnh nhân, dự trữ riêng. Sau khi bệnh nhân được điều trị bằng hóa chất liều cao để diệt toàn bộ tế bào ung thư, các bác sĩ sẽ truyền tế bào gốc đã được phân lập trở lại để tế bào gốc sinh ra tế bào máu mới. Nhiều bệnh nhân đã sống thêm được 5-7 năm, kết quả đáng mong đợi trong điều trị bệnh ung thư. Ngoài ra, Viện Huyết học truyền máu TP HCM và Bệnh viện Nhi TW cũng đã và đang ứng dụng thành công phương pháp điều trị này.
Nếu được nghiên cứu và ứng dụng thành công, ghép tế bào gốc cũng sẽ mang lại kết quả khả quan trên những bệnh nhân tim mạch. Xin đơn cử những trường hợp nhồi máu cơ tim. Thông thường, việc điều trị kịp thời bằng thuốc cũng mang lại hiệu quả nhất định, nhưng chỉ giúp giảm triệu chứng, còn ổ nhồi máu vẫn còn đó, lâu dài sẽ thành sẹo, ảnh hưởng đến chức năng vốn có của tim. Trong khi đó, nếu điều trị bằng ghép tế bào gốc, các bác sĩ sẽ tiến hành bơm trực tiếp tế bào gốc phân lập từ tủy xương và nuôi cấy được vào vị trí tổn thương. Các tế bào gốc sẽ bám sống, sinh sôi, phát triển, giúp ổ nhồi máu phục hồi nguyên trạng, có chức năng bình thường.
Với các bệnh về mắt làm tổn thương giác mạc, ảnh hưởng đến thị giác, tế bào gốc sẽ được thu thập từ góc mắt của bệnh nhân, nuôi cấy trên màng ối rồi được ghép trở lại mắt cho người bệnh.
Ý KIẾN CHUYÊN GIA
PGS.TS Phạm Duy Hiển- Phó giám đốc Bệnh viện K Hà Nội:
Có thể chữa khỏi hoàn toàn một số bệnh ung thư
Ghép tế bào gốc chỉ có thể điều trị được một số bệnh, chủ yếu là các bệnh do tế bào tạo máu gây ra như ung thư máu, ung thư hệ thống hạch... Về mặt chuyên môn, bác sĩ phải biết điều chỉnh liều lượng thuốc để có thể vừa diệt sạch được tế bào ung thư mà không gây chết người. Trong một số bệnh ung thư, phương pháp này không chỉ giúp kéo dài cuộc sống của người bệnh, mà còn còn có thể chữa khỏi hoàn toàn. Bệnh viện K cũng đang tiến hành nghiên cứu để áp dụng phương pháp này trong điều trị. Nếu ứng dụng thành công thì chúng ta sẽ có thêm một vũ khí nữa để “chiến đấu” với ung thư.
PGS.TS Hoàng Minh Châu, Khoa Kết - Giác mạc, Bệnh viện Mắt TW:
Đặc tính của tế bào gốc đã được ứng dụng từ 10 năm trước
ở nhãn khoa, hiện chỉ áp dụng phương pháp ghép tế bào gốc cho giác mạc, còn các bộ phận khác thì chưa có vì phức tạp hơn. Từ năm 1996-1997, khi thế giới bắt đầu chuyển động về các phương pháp điều trị bằng tế bào gốc, chúng tôi đã sử dụng kỹ thuật lấy một phần rìa giác mạc (trong đó có tế bào gốc) ở bên mắt lành để ghép cho con mắt bị hỏng giác mạc. Khi đó, phần tế bào gốc này sẽ sinh sản và lấp đầy giác mạc. Kỹ thuật này cũng sử dụng lý thuyết về tế bào gốc, nhưng không hoàn toàn giống với đề án ghép tế bào gốc mà chúng tôi sẽ phối hợp với các cán bộ của Trường Đại học y triển khai trong thời gian tới. Theo đó, người ta sẽ phân lập tế bào gốc rồi đem nuôi cấy trên giá thể màng ối và ghép vào giác mạc bị tổn thương. Cách làm này sẽ khắc phục được hạn chế của phương pháp trên, đó là có thể điều trị cho bệnh nhân bị hỏng cả bên giác mạc.
ThS.BS Bạch Quốc Khánh, Phó viện trưởng viện Huyết học và truyền máu Trung ương:
Đang còn nhiều tranh cãi
Đối với một số bệnh, điều trị bằng phương pháp ghép tế bào gốc có thể được xem là một bước đột phá. Tuy nhiên với các bệnh về máu, đây chỉ là một phương pháp hỗ trợ cho việc điều trị bằng hóa chất. Ví dụ nếu điều trị hóa chất thông thường tỉ lệ sống trên 5 năm là 30% thì ghép tế bào gốc làm tăng tỷ lệ này lên 50%. Chứ không phải ghép tế bào gốc có thể chữa khỏi hoàn toàn. Trên thế giới việc đánh giá hiệu quả của điều trị bằng tế bào gốc đối với các bệnh về máu đang còn rất nhiều tranh cãi, có đến 50% người cho rằng ghép tế bào gốc trong điều trị ung thư không mang lại hiệu quả gì.
Dự án “ứng dụng và sử dụng các tế bào gốc tách từ màng dây rốn cho y học tái tạo” đang hình thành và sẽ được ký kết vào đầu năm 2007 giữa đơn vị nghiên cứu của PGS.TS Phan Toàn Thắng và Bộ Khoa học - Công nghệ. Theo GS. Phạm Mạnh Hùng, chủ tịch hội đồng khoa học của dự án, hiện nay dự án này đã được giao cho công ty cổ phần hóa dược phẩm Mekongpharm thực hiện. Theo đó, một đề cương hợp tác chi tiết sẽ được thông qua vào năm 2007. Trong đó, sẽ có việc xây dựng ngân hàng lưu trữ dây cuống rốn với sự tham gia của Viện y học cổ truyền, Viện bỏng quốc gia và phòng công nghệ mô phổi, Viện công nghệ sinh học. Trước mắt sẽ thu lượm dây rốn của những người tình nguyện để phục vụ cho việc nghiên cứu, đào tạo, giúp các chuyên viên kỹ thuật quen với công nghệ thu giữ, tách tế bào. Sau đó, sẽ cung cấp dịch vụ lưu giữ dây rốn.