Erythropoietin tác dụng & tác hại
Hồng cầu có chức năng chuyên chở oxy đến mô tế bào, nhằm giúp tế bào hoạt động. Trong các môn thể thao sức bền như cưỡi ngựa, đua xe đạp, chèo thuyền, điền kinh, trượt tuyết xuyên quốc gia,... EPO ngoại sinh (dược phẩm từ ngoài đưa vào) là một “doping”, giúp tạo ra nhiều hồng cầu cho cơ thể, vì vậy chuyên chở nhiều oxy (hơn bình thường) đến các mô để hoạt động hữu hiệu hơn, nhất là tại cơ bắp nhằm giúp nâng cao thành tích cho các vận động viên. Mặc dù EPO được sử dụng rộng rãi trong thi đấu từ những năm 1990, nhưng thời gian này chưa có phương pháp kiểm tra. Năm 2000, các nhà khoa học tại phòng Thí nghiệm chống doping quốc gia Pháp đưa ra một phương pháp phát hiện EPO ngoại sinh (dược phẩm) trong nước tiểu của vận động viên, bằng cách phân biệt nó với EPO nội sinh. Phương pháp này được cơ quan chống Doping thế giới xác nhận.
Năm 2002, tại Olympic mùa Đông ở thành phố Salt Lake, nhà quý tộc Catlin cũng là bác sĩ y khoa, người sáng lập và là Giám đốc phòng thí nghiệm phân tích của Olympic UCLA, báo cáo tìm thấy darbepoitin alpha - một dạng khác của erythropoietin và đề ra mẫu thử EPO trong thể thao.
Từ năm 2002 - 2006, việc kiểm tra doping EPO tại Thế vận hội bắt đầu được tiến hành trên máu và nước tiểu.
Năm 2010, tay đua xe đạp chuyên nghiệp Floyd Landis thừa nhận đã sử dụng doping bao gồm EPO trong phần lớn các cuộc thi đấu.

EPO làm tăng nguy cơ mạch máu
Một nghiên cứu mới công bố trực tuyến trên tạp chíFASEB(ngày 9.12.2011) cho thấy chất này làm tăng nguy cơ gây các vấn đề mạch máu trong cơ thể, nhất là não.
Thực hiện nghiên cứu, TS. Peter Rasmussen, một nhà nghiên cứu từ Trung tâm Sinh lý học người - Đại học Zurich, Thụy Sĩ và các đồng nghiệp, đã đánh giá ảnh hưởng của EPO ngắn hạn (liều cao trong bangày) và dài hạn (liều lượng thấptrong 13 tuần), ở trong hai nhóm nam giới khỏe mạnh. Đáp ứng của mạch máu não trong thời gian nghỉ ngơi và trong thời gian tập thể dục, đạp xe đạp, có và không có tình trạng thiếu oxy, đã được các nhà nghiên cứu kiểm tra theo dõi. Các mạch máu cũng được phân tích bằng cách sử dụng siêu âm và đo lượng oxy đến não. Họ nhận thấy sử dụng EPO thời gian dài làm tăng hematocrit. Họ cũng phát hiện ra rằng cả hai nhóm sử dụng EPO ngắn hạn và dài hạn đã tăng co thắt mạch máu, làm giảm lưu lượng máu đến não và huyết áp cao hơn (tăng huyết áp). Những phát hiện mới của nghiên cứu này kêu gọi rà soát lại chỉ định cho EPO.
EPO được các bác sĩ sử dụng để tăng tế bào hồng cầu ở người bệnh không đủ số lượng hồng cầu trong máu (thí dụ: bệnh nhân ung thư phải hóa trị; bệnh nhân suy thận mãn tính,...): đó là sử dụng thuốc trung thực.
Dù là sử dụng để điều trị cũng có nhiều tác dụng phụ: ở bệnh nhân suy thận mãn tính sử dụng EPO làm tăng nguy cơ biến chứng tim mạch, nếu tăng nồng độ hemoglobin trên 13g/dl. Ở bệnh nhân ung thư, chỉ điều trị thiếu máu gây ra do hóa trị chứ không phải do nguyên nhân khác và phải chấm dứt EPO khi quá trình hóa trị hoàn tất.
TS.BS. Gerald Weissmann, Tổng Biên tập tạp chíFASEBnói: “Khi sử dụng EPO cho vận động viên nhằm tăng thành tích, gọi là gian lận. Hơn nữa, EPO không an toàn cho sức khỏe vận động viên, có rất nhiều cách khác để tăng khả năng thi đấu mà không cần EPO”.T








