Dứt điểm cái nghèo của nông dân: Trông đợi sức bật từ guồng máy mới
Trước hết, phải thấy rằng chính sự hạn chế về học vấn đã dồn đẩy nông dân (ND) vào thế bất lợi. Phần đông ND ta có trình độ học vấn thấp, là nguyên nhân dẫn đến hàng loạt bất lợi cho họ và gia đình họ. Thí dụ, tình trạng thiếu dinh dưỡng ở nông thôn không phải do thiếu tiền mua thức ăn nên không đủ chất bổ, mà vì rất nhiều người phụ nữ ở nông thôn không biết ăn những đồ bổ dưỡng mà họ có thể sản xuất quanh nhà. Ở nông thôn, gia đình chỉ cần siêng năng một tí thì có thể trồng quanh nhà một ít cây chuối, đu đủ, khóm, bưởi, chanh một cách dễ dàng.
Ở các nước giàu, người ta trồng không được mấy thứ đó, phải nhập cảng từ các nước vùng nhiệt đới để họ ăn sáng cho đủ chất bổ, nhưng ND ta lại không có tập quán ăn trái cây hoặc uống nước chanh, nước cam buổi sáng. Hoặc gia đình không biết cách giữ thực phẩm cho an toàn vệ sinh, chế biến thức ăn bổ dưỡng từ các vật liệu có thể trồng quanh nhà.
Và cũng vì trình độ học vấn kém nên gia đình cũng không quan tâm đến những sinh hoạt văn minh, không áp dụng kỹ thuật sản xuất tiên tiến một cách nghiêm túc. Mặt khác, chính trình độ dân trí thấp đưa đến những hành động có hại cho cộng đồng và môi trường sống như: Xả rác bừa bãi, để phân gia súc rơi rớt nơi công cộng...
Trong hoạt động kinh tế, tình trạng mạnh ai nấy lo đưa đến việc mất đoàn kết hoặc nghi ngờ, không thích gia nhập hợp tác xã kiểu mới, không tôn trọng ký kết hợp đồng với doanh nghiệp (DN) trong khi nhiều DN cũng không tôn trọng hợp đồng với ND. Ngoài ra, một bộ phận ND còn quá lệ thuộc vào những tập quán tốn kém như: Rượu chè, hút thuốc, đánh bạc dẫn đến trộm cắp, cầm cố đất đai, rồi một thời gian sau không trả nợ được phải bán đất, trở thành người không đất.
Trước hết, phải thấy rằng, ở những vùng nghèo, vùng sâu, giao thông chưa được thông suốt, trường học và hệ thống giáo dục phổ thông còn nhiều bất cập, trạm xá thiếu thốn thuốc men và bác sĩ giỏi, bộ máy lãnh đạo xã, ấp (thậm chí lên đến huyện, thị) yếu về quản lý và chuyên môn khoa học kỹ thuật (KHKT). Chính điều này đã dẫn đến tình trạng vô cùng nguy hiểm: Sức khỏe và sản xuất của ND đã và đang bị đe dọa ngày càng nghiêm trọng.
Bởi không chỉ là nạn nhân trực tiếp của nạn thực phẩm giả mạo hoặc không bảo đảm an toàn vệ sinh, ND còn gánh trọn cơn cuồng nộ từ biến động của vật tư nông nghiệp. Ngoài gánh nặng về giá liên tục nhảy múa, ND còn phải gánh thêm nỗi lo về phân, thuốc giả, thức ăn chăn nuôi kém chất lượng tràn lan, không được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ, dẫn đến hệ lụy: Lợi tức đã thấp lại càng thấp hơn trong khi hệ thống thu mua nông sản lại lệ thuộc thương lái câu kết với các công ty lương thực đã và đang tiếp tục lấy đi tỉ lệ lớn tiền lãi do ND làm ra.
Thông thường vào thời điểm thu hoạch lúa rộ, các công ty và thương lái tìm nhiều cách hạ giá thu mua, như: Ban hành lệnh tạm ngừng mua dự trữ; các công tty xin kinh phí của Nhà nước để cho các thương lái mua lúa giá rẻ mạt nhằm “tạm trữ”. Khi lúa trong ND đã hết, họ bắt đầu bán lúa hoặc gạo giá cao thì ND không còn gì để bán. Thiệt hại này cứ lặp đi lặp lại mãi, nhưng không hiểu sao chưa được giải quyết dứt điểm?
Ảnh hưởng tổng hợp của những yếu tố trên đã kéo dài sự nghèo nàn của các nông hộ và sự chậm phát triển của nông thôn ở vùng sâu, vùng xa, làm cách xa thêm sự phân hóa giàu nghèo. Thế nhưng trên các báo cáo của địa phương, thành tích giảm nghèo ở nông thôn đang diễn biến rất tốt đẹp vì thực chất số liệu xóa nghèo này bao gồm cả một thiểu số đã thoát nghèo cộng với một đa số “cận nghèo”.
Tỉ lệ nông hộ “cận nghèo” này sẵn sàng lọt sang nhóm nghèo khi có một bất trắc nhỏ xảy đến. Do đó, các chuyên gia đánh giá rằng tỉ lệ xóa nghèo của chúng ta không ổn định. Bởi bên cạnh cái nghèo, người dân ở nông thôn còn rất thiếu việc làm, lại bị địa phương huy động công, của thực hiện các công trình phúc lợi xã hội theo kiểu “Nhà nước và nhân dân cùng làm” nên đã nghèo lại nghèo thêm. Đáng lý ra, Nhà nước nên đưa dự án xuống nông thôn kèm theo một ngân sách rất cụ thể để xây dựng nông thôn mới. ND nghèo có việc làm với thu nhập ổn định mà bộ mặt nông thôn cũng ngày một khởi sắc thật sự. Với cách làm này, Nhà nước chỉ tốn một lần đầu tư nhưng sẽ thu lại nhiều kết quả. Suy rộng ra, việc đầu tư Quỹ Xóa đói giảm nghèo sẽ hiệu quả hơn nếu làm được như thế.
Trung ương Đảng đã sáng suốt thấy những tình huống này nên đã có Nghị quyết 26 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nhưng từ nghị quyết ra đến thực tế phải có những sáng kiến thực hiện cụ thể. Hiện nay, đã có nhiều mô hình đang được một số DN như Nông trường Sông Hậu, Công ty ADC, Công ty CP BVTV An Giang... thực hiện, đảm bảo cho ND trồng lúa làm theo kỹ thuật nông nghiệp tối hảo (GAP), đạt năng suất cao và bán hết lúa cho công ty. Tuy nhiên, trong những mô hình này, DN và ND vẫn chưa gắn kết nhau ngoài quan hệ “tiền trao, cháo múc”.
Một mô hình mới hơn nữa đang được triển khai tại Tam Nông và Giồng Găng (Đồng Tháp) và Phú Tân (An Giang) theo dạng “công ty CP nông nghiệp”. Với hình thức này, dự kiến quan hệ giữa ND và DN được gắn chặt bằng cổ phần của công ty. ND tuy không có tiền nhiều lúc ban đầu, nhưng họ có lúa, nên cần có một chính sách cho ND có thể mua cổ phần bằng lúa sau mỗi vụ thu hoạch và bán lúa cho công ty của chính họ với giá bảo đảm có lợi. Như thế ND sẽ không còn bị rủi ro vì chênh lệch giá, trái lại luôn có lãi, kể cả lãi từ chia cổ tức hàng năm, thoát ly cái vòng lẩn quẩn “trúng mùa rớt giá; thất mùa trắng tay”. Lối ra này của ND nghèo VN chỉ có thể thực hiện được nếu như có một quyết tâm của Đảng và Nhà nước.
Chúng tôi tin rằng, với kinh nghiệm, bản lĩnh của trí tuệ tập thể, quý vị đại biểu Quốc hội khóa XIII này và Chính phủ khóa mới sẽ tạo ra sức bật chuyển biến cho nông thôn và ND ta được đổi đời.








