Thứ tư, 31/01/2007 21:52 (GMT+7)
Đương qui vị thuốc bổ máu, dưỡng tim
* Về thành phần hoá học và hoạt chất, rễ đương qui chứa một lượng đáng kể sinh tố B12 (0,25 – 0,40mcg/100g), sinh tố E, axit ferulic, succinic, nicotinic, folinic, biotin, uracil, adenin, butylidenephalid, ligustilid… Nó còn chứa polysaccarid có trọng lượng phân tử 3000.
|
Rễ đương qui |
* Về tác dụng dược lý, các hợp chất tan trong nước và không bay hơi (thuốc sắc) củađương qui kích thích tử cung, trong khi đó các hợp chất tinh dầu tan trong cồn (ngâm rượu) lại ức chế hoặc thư giãn tử cung. Các hợp chất này còn giúp tăng cường sự tổng hợp DNA ở tử cung và làm tửcung phát triển. Tác dụng thư giãn tử cung còn được tăng cường khi dùng phối hợp với chất tetramethypyrazon chiết từ xuyên khung. Đương qui còn giúp kéo dài thì tâm thu của tim và hạ huyết áp. Nógiúp giãn nở mạch vành và tăng cường dẫn máu qua mạch vành. Nó cũng giúp giảm nhịp hô hấp. Chiết xuất bằng nước của đương qui tiêm vào thỏ cho thấy giảm rối loạn cơ tim và bảo vệ được cơ tim khi bịnhồi máu cơ tim. Nó cũng giúp cải thiện chức năng tim nên giảm được hiện tượng thiếu oxy huyết do cao huyết áp phổi.Nhờ hàm lượng sinh tố B12 cao và lượng axit folic, biotin trong rễ nên đương qui giúp tăng cường sự tạo máu ở tuỷ xương. Nó cũng cản trở tiểu cầu không cho tiết ra nhiều 5-hydroxytryptamin.
Polysaccrid trong đương qui cũng tăng cường tạo máu và kích thích các đại thực bào, nguyên bào sợi, hồng cầu, bạch cầu hạt, tế bào lympho nên tăng cường hệ miễn dịch…
Sodium ferulat trong rễ đương qui còn giúp bảo vệ gan và giảm áp huyết ở động mạch và tĩnh mạch cửa. Đương qui cũng giúp hạ cholesterol và chống xơ vữa động mạch và tăng cường tuổi thọ.
|
Rễ đương qui dưới kính hiển vi |
* Về điều trị, người ta dùng đương qui trong các toa thuốc trị bệnh phụ nữ như kinhnguyệt không đều, kinh nguyệt kéo dài, đau bụng kinh, thiếu máu, xanh xao: đương qui 12g, thục địa 12g, bạch thược 8g, xuyên khung 6g, rễ cây gai 20g, nước 700ml. Sắc còn 300ml chia ra uống 3 lầntrong ngày. Dùng 7 – 10 ngày. Phụ nữ sau sanh, thiếu máu, xanh xao: đương qui 12g, nhân sâm 6g, đại táo 8g, bạch thược 12g, quế chi 6g, gừng tươi 3 lát, nước 700ml. Quế và gừng giã nát, chờ khi sắccòn phân nửa mới cho vào, nhắc xuống chờ nguội chia ra uống trong ngày. Có thể sắc thêm nước nhì để dùng. Dung 5-7 thang liên tục. Có thể dùng đương qui 12g, bạch chỉ 4g, nhân sâm 6g, đảng sâm 12g,sinh địa 8g, câu kỷ tử 12g, đại táo 12g. Hầm với 1 con gà ác ăn mỗi tuần 2 lần trong vài tháng.Suy tim: Đương qui 12g, hoàng kỳ 16g, nhân sâm 6g, đan sâm 12g, đại táo 8g. Hầm với rùa hoặc gà ác ăn mỗi tuần 2 lần, trong nhiều tháng.
Thấp khớp, đau nhức khớp xương, mỏi mệt kinh niên: Đương quy 16g, ngưu tất 20g, linh chi 12g, rễ hà thủ ô trắng 20g, hoàng kỳ 16g, nước 700ml. Sắc còn phân nửa uống trong ngày. Có thể sắc nước nhì để dùng. Dùng 7-10 ngày.
Thiếu máu, tim hồi hộp, mất ngủ, tắt kinh, tiền mãn kinh: đương qui 12g, nhân sâm 6g, xuyên khung 6g, cam thảo 6g, viễn chí 12g, hoàng kỳ 16g, nước 700ml. Sắc còn 300ml uống trong ngày. Ngày hôm sau sắc thêm nước nhì. Dùng 7-10 thang.
Nguồn: Thuốc & Sức khoẻ, số 307 (1/5/2006)