Động lực đổi mới công nghệ
Có thể nói, đổi mới công nghệ là nhân tố quyết định trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, tăng cường năng lực cạnh tranh của Quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đối với quốc gia đang phát triển như nước ta, lộ trình đổi mới công nghệ thông thường phải bắt đầu bằng việc tiếp nhận, chuyển giao công nghệ từ những nước phát triển, rồi nghiên cứu học hỏi tiếp thu, làm chủ, cải tiến để tạo ra công nghệ thích hợp (Appropriated technology) nhằm gia tăng nội lực trong cuộc cạnh tranh kinh tế, bắt kịp trình độ sáng tạo của các nước phát triển đi trước. Chương trình đổi mới công nghệ đòi hỏi sự tham gia chủ động vào cuộc của toàn xã hội. Nhà nước đóng vai trò đầu tàu bằng cách đầu tư vào đổi mới các công nghệ then chốt, có xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách, hình thành môi trường sáng tạo, qua đó tạo ra hiệu ứng cộng lực cho toàn hệ thống kinh tế - xã hội. Các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế, kể cả kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò là trung tâm, là chủ thể của chương trình đổi mới công nghệ quốc gia, bởi nhu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh của nhà sản xuất và dịch vụ trong kinh tế thị trường mới thực sự tạo ra động lực cho quá trình đổi mới công nghệ. Lâu nay, nói về đổi mới/sáng tạo khoa học – công nghệ , người ta thường chỉ hay nói đến các nhà khoa học, các trường đại học và viện nghiên cứu. Tuy khoa học – công nghệ có nội lực phát triển, nhưng nếu đặt nó trong hệ thống kinh tế - xã hội thì phải thấy mối quan hệ giữa nghiên cứu sáng tạo với nhu cầu của thị trường. Các nhà kinh tế học cho rằng lực lượng khoa học – công nghệ cùng với các yếu tố vốn xã hội khác tạo nên mức độ thịnh vượng của mỗi quốc gia (Weath of nation). Các quốc gia có mức độ thịnh vượng khác nhau. Theo kết quả khảc sát của Ngân hàng thế giới, một người Mexico nhập cư vào Hoa Kỳ thì năng suất lao động của anh ta sẽ tăng lên gấp 5 lần. Đơn giản vì khi vào Mỹ anh ta được thụ hưởng một tài sản vô hình là 418.000 USD trong khi ở Mexico chỉ là 34.000 USD mà thôi. Sự thịnh vượng quốc gia phụ thuộc tương đối ít vào các yếu tố hữu hình như máy móc, công nghệ, tài nguyên… mà chủ yếu phụ thuộc vào các yếu tố vô hình như trình độ dân trí, trình độ khoa học, lòng tin của con người trong xã hội, nền pháp chế hữu hiệu, quyền sở hữu trí tuệ minh bạch và năng lực điều hành của Chính phủ.
Công nghệ nhập khẩu mà không dựa trên một nền tảng xã hội tương thích thì không thể phát triển bền vững. Nhiều khu công nghệ cao của một số nước không có hiệu quả vì những hạt giống công nghệ cao không thể nảy mầm trên một mảnh đất khô cằn, không có đổi mới/sáng tạo.
Nhìn lại quá trình đổi mới công nghệ của Việt Nam hơn 25 năm qua, chúng ta nhận thấy mức tăng trưởng bình quân của các nhóm công nghệ đã có phần nghiêng về công nghệ cao, tuy nhiên so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì trình độ công nghệ của nước ta còn thấp; phần lớn công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam lạc hậu so với mức trung bình trên thế giới khoảng 2 – 3 thế hệ. Điều đáng lo ngại là phần lớn các doanh nghiệp của ta chỉ dựa vào công nghệ có sẵn hoặc nhập khẩu, đổi mới công nghệ chưa thực sự trở thành yếu tố cạnh tranh. Bình quân tỉ lệ đầu tư cho đổi mới doanh nghiệp của Việt Nam là dưới 0,5% doanh thu trong khi ở Ấn Độ chỉ số này là 5%; Hàn Quốc: 10%....
Hơn 25 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta tuy có tốc độ tăng trưởng khá nhưng trình độ phát triển lại chậm, còn nhiều nhược điểm, với ba khâu thắt nút cổ chai: sự hẫng hụt nhân lực kỹ thuật, kết cấu hạ tầng yếu kém, năng lực quản lý quốc gia còn nhiều bất cập cùng với một thị trường chưa lành mạnh. Điều đó tạo ra áp lực bắt buộc trong thời gian tới nước ta phải chuyển từ phát triển theo bề rộng (Extensive development) sang phát triển theo chiều sâu (Intensive development).
Để thấy rõ vai trò của đổi mới công nghệ đối với sự phát triển bền vững, chúng ta hãy so sánh hai doanh nghiệp tương ứng của Việt Nam và Hàn Quốc: Chaebol tàu biển Hyundai và Vinashin. Thực tế tập đoàn Vinashin là tổ chức theo dạng thức Chaebol tàu biển Hyundai. Từ những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ trước, Hyundai đã đi vào công nghệ sản xuất tàu biển, từ chỗ hầu như hoàn toàn phải nhập công nghệ đến chỗ đứng vị trí hàng đầu thế giới về công nghệ tàu biển vào những năm 1980, lập ra nhiều nhà máy thử nghiệm - triển khai về công nghệ tàu biển. Chính sách của Hyundai là đầu tư theo chiều sau, đổi mới/sáng tạo liên tục để làm chủ công nghệ cao, lập ra các viện nghiên cứu, các trung tâm đào tạo kỹ sư. Hyundai chủ trương không chạy theo số lượng sản phẩm mà chủ yếu thương mại hoá công nghệ đóng tàu; muốn vậy phải đổi mới sáng tạo công nghệ để tăng sức cạnh tranh. Trong khi đó Tập đoàn Vinashin vào năm 2006 cũng theo mô hình chaebol nhưng sau khi hợp nhất các doanh nghiệp nhỏ, Vinashin được đầu tư ồ ạt từ nhiều nguồn, mở ra tăng trưởng theo chiều rộng, có tới 28 công trường đóng tàu với gần 70.000 lao động, nhưng lại dựa vào công nghệ nhập đã lạc hậu. Kết quả là đến đầu năm 2010, trong tổng tài sản 104 nghìn tỉ VNĐ thì đã nợ 86 nghìn tỉ VNĐ. Vinashin rơi vào nguy cơ vỡ nợ nếu không được Nhà nước tiếp tục cứu trợ. Từ đây, chúng ta có thể đặt câu hỏi: Vì sao Vinashin không có động lực đổi mới sáng tạo công nghệ? Động lực đó chỉ có được khi doanh nghiệp phát triển theo chiều sâu, có nhu cầu tăng sức cạnh tranh ở trong và ngoài nước. Vinashin vẫn ỷ lại vào Nhà nước chứ chưa thực sự dựa vào nội lực của chính mình.
Nền kinh tế thị trường của nước ta qua mấy thập niên vẫn còn nhiều khiếm khuyết, chưa thực sự tạo được động lực đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp. Nhà kinh tế Lippman đã nhận định: “Một thị trường lành mạnh phải có khả năng giúp con người, với sự thiếu hoàn hảo của họ vẫn có khả năng xây dựng một xã hội thịnh vượng hơn, công bằng hơn và đức hạnh hơn…”. Theo các nhà kinh tế học đặt nền móng triết lý cho kinh tế thị trường, như Adam Smith, David Hume thì kinh tế thị trường cần được nhìn nhận như một quá trình tiến hoá kiến thức: Thị trường là các cơ chế kiến tạo nên sự tăng trưởng kiến thức. Thị trường càng mở rộng và hoàn thiện thì càng có nhiều khả năng trao đổi, chuyên môn hoá, tăng trưởng tri thức để phát triển sản xuất tạo ra nhiều của cải và sự thịnh vượng của quốc gia. Trong quá trình tiến hoá của một nền kinh tế, tri thức là đơn vị tiến hoá; tư bản là tri thức được đưa vào vận hành; lao động là tri thức ở dạng hoạt động; tiền tệ, với vai trò lưu trữ giá trị, là tiềm năng tri thức. Cơ chế tiến hoá kinh tế được vận hành trên các hệ thống và các thiết chế trong kinh tế thị trường, qua đó làm tăng trưởng tri thức, đặt nền tảng cho sự thịnh vượng quốc gia. Ngày nay triết lý này vẫn còn có tính thời sự đối với các nền kinh tế phát triển đang tiến đến nền kinh tế Tri thức.
Trong lộ trình đổi mới công nghệ, Việt Nam cần phải xây dựng bản đồ công nghệ và các bước đi thích hợp. Tiến hành nghiên cứu triển khai các công nghệ tiên tiến để có năng lực sản xuất các sản phẩm trọng điểm. Tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ - khu vực chiếm tới 40% GDP của cả nước với hơn 500.000 doanh nghiệp. Điều cốt lõi là phải tạo ra được nhu cầu và điều kiện cần và đủ để đổi mới công nghệ, tăng năng lực cạnh tranh trong kinh tế thị trường. Làm cách nào để nhà doanh nghiệp nhận thức và hành động theo phương châm: đổi mới công nghệ phục vụ người tiêu dùng là cách làm giầu chân chính duy nhất. Nếu không đầu tư vào những dây chuyền công nghệ có thể phục vụ tốt nhất nhu cầu xã hội thì doanh nghiệp sẽ lập tức bị loại khỏi cuộc chơi, nhà đầu tư sẽ đánh mất vốn liếng của mình.
Theo tinh thần Nghị quyết 26 của Bộ chính trị, đổi mới công nghệ trong khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn là tạo ra nền tảng để phát triển bền vững nông nghiệp, bảo đảm an ninh lương thực, an sinh xã hội, đặc biệt chú ý đầu tư cho vùng sâu vùng xa, xoá đói giảm nghèo…
Cần chú trọng xây dựng các thiết chế tạo ra môi trường pháp lý thích hợp, triển khai đồng bộ các chương trình, các chuỗi đổi mới công nghệ. Tăng nguồn lực tài chính cho chương trình đổi mới công nghệ. Để vượt qua thử thách đặc biệt trong thời điểm lạm phát cao hiện nay, bên cạnh nguồn đầu tư của Nhà nước cần huy động nguồn vốn của toàn xã hội đầu tư cho đổi mới công nghệ. Thành lập Quỹ đổi mới công nghệ, trong đó có Quỹ Nhà nước và Quỹ doanh nghiệp.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, Việt Nam cần thực hiện đổi mới công nghệ trong tương quan với các nước khu vực và trên thế giới, tăng cường hợp tác quốc tế để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế theo chiều sâu và thích nghi với hoàn cảnh chung để trở thành một nền kinh tế đóng vai trò cầu nối giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Chương trình đổi mới công nghệ ở Thủ đô, với vị thế là trung tâm kinh tế - văn hoá – chính trị của cả nước, lại càng có ý nghĩa to lớn. Ngày nay Hà Nội đã được mở rộng, trên địa bàn Thủ đô có lực lượng trí thức khoa học và công nghệ đông đảo với trình độ cao nhất cả nước, tập trung nhiều trường đại học và viện nghiên cứu, có khu công nghệ cao Hoà Lạc và các khu công nghiệp khác, có một vùng nông nghiệp - nông thôn khá lớn với nhiều làng nghề và nhiều vùng sản xuất nông nghiệp có điều kiện tiếp thu công nghệ tiên tiến. Hà Nội cần có giải pháp đột phá trong chương trình đổi mới công nghệ để dẫn đầu cả nước trong việc xây dựng một nền kinh tế phát triển theo chiều sâu dựa vào khoa học – công nghệ, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường xanh, sạch, đẹp để có đủ hành trang đạt tới mục tiêu công nghiệp hoá theo hướng hiện đại vào năm 2020, tiến tới nền Kinh tế tri thức.








