Đóng góp ý kiến về thực hiện mục tiêu xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành trung tâm khoa học và công nghệ
Sinh thời, Bác Hồ đã nói “Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học sẽ là nguồn sức mạnh vô tận, chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô tận”(1) (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.9, tr.131). Tức khoa học không chỉ giải phóng cơ bắp con người mà đưa con người tới văn minh, hiện đại. KH&CN là chính là cánh cửa mở ra bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhiều quốc gia trên thế giới phát triển hùng mạnh nhờ chú trọng và có cách làm hữu hiệu về KH&CN. Hàn Quốc hay Đài Loan dù gần như không có tài nguyên hay đất nông nghiệp, nhưng họ vẫn dẫn đầu thế giới trong nhiều lĩnh vực. Nhật Bản đã vươn lên thành cường quốc giàu mạnh nhờ sớm nhận thức: không thể có một quốc gia hùng mạnh nếu không phát triển KH&CN. Trung Quốc cũng đã xây dựng một chủ thuyết mới: “Khoa học phát triển quan” -phát triển đất nước dựa trên thế giới quan khoa học, vì vậy, Trung Quốc hiện có các thành tựu khoa học mà thế giới có, như tên lửa, vũ khí hạt nhân, tàu vũ trụ có người lái, máy bay chiến đấu...
Vì vậy xác định mục tiêu này là nhận thức đúng đắn của tỉnh, đã thấy được KH&CN phải là động lực phát triển kinh tế. Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để biến nó thành hiện thực, chứ không chỉ trên giấy tờ, nghị quyết.
Trong bài tham luận tại đại hội Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ XI, TS. Đỗ Nam, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (nguyên Giám đốc Sở KH&CN tỉnh) đã đưa ra tiêu chí một trung tâm KH&CN như sau:
- Là nơi có đội ngũ khoa học xuất sắc, nổi tiếng, với số lượng lớn các công bố quốc tế, các bằng sáng chế, giải pháp hữu ích được công nhận ở Việt Nam và một số nước khác, có một số nhà khoa học đạt giải thưởng khoa học cấp nhà nước hoặc giải thưởng khoa học quốc tế.
- Là địa phương có trình độ, năng lực về công nghệ cao hơn mức trung bình cả nước, có những công nghệ mang chỉ dẫn địa lý của địa phương, do chính người địa phương hoặc người đang làm việc ở địa phương, hoặc người được nhận tài trợ của địa phương nghiên cứu, phát triển.
- Trung tâm KH&CN phải bao gồm các tổ chức KH&CN mạnh, có các phòng thí nghiệm chuyên sâu, hiện đại. Là nơi hội tụ, hấp dẫn các nhà khoa học khắp mọi miền đất nước, thậm chí từ khắp nơi trên thế giới đến làm việc, dự hội nghị, hội thảo khoa học quốc gia, quốc tế hoặc chỉ để được gặp gỡ, trao đổi với các nhà khoa học của địa phương đó.
- Là nơi các thành tựu của KH&CN được được ứng dụng rộng rãi trong đời sống và sản xuất, đưa năng suất, hiệu quả sản xuất và chất lượng cuộc sống của người dân địa phương ngày một cao hơn. Hay nói một cách khác, KH&CN phải có đóng góp thiết thực và quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ môi trường của địa phương.
Chúng tôi có thể lấy đây là tiêu chí để soi vào thực tiễn để xem xét, Thừa Thiên Huế đang có những tiền đề gì và thiếu hụt cái gì, từ đó có những đề xuất ban đầu về giải pháp.
Về tiềm năng, thế mạnh của KH&CN hiện có
Là kinh đô của cả nước thời Nguyễn, trên đất cố đô từng tồn tại Trường Quốc Tử Giám (trường Đại học thứ 2 ở Việt Nam, sau Quốc Tử Giám Thăng Long, Hà Nội). Trường Quốc Tử Giám đóng góp hết sức to lớn trong việc đào tạo nhân tài cho đất nước, là nơi lưu lại dấu chân của hơn 500 vị tiến sĩ, phó bảng của triều Nguyễn. Cùng với Văn Miếu-Quốc Tử Giám, Quốc Tử Giám Huế đã đóng góp công sức của mình trong việc đào tạo ra những nhân tài của đất nước và phản ánh một thời kỳ của lịch sử. Kể từ khi Quốc Tử Giám Huế ra đời đến nay, nền giáo dục đại học ở Huế đã có lịch sử gần hai thế kỷ. Đại học Huế là trung tâm đào tạo lớn của miền Trung và cả nước với 60 năm trưởng thành và phát triển.Đại học Huế có 11 trường thành viên, 2 khoa và 5 trung tâm trực thuộc, với 93 chuyên ngành đào tạo bậc đại học, 64 chuyên ngành đào tạo thạc sĩ và 22 chuyên ngành đào tạo tiến sĩ. Có 30 viện, phân viện, trung tâm nghiên cứu khoa học. Trên địa bàn tỉnh ta có trên 50 tổ chức nghiên cứu và triển khai thuộc mọi thành phần kinh tế đang hoạt động, trong đó có gần 10 tổ chức ngoài nhà nước, có 136 phòng thí nghiệm lớn, nhỏ, trong đó có nhiều phòng thí nghiệm lớn về quy mô và khá mạnh về năng lực, như Trung tâm Phân tích, Trạm Quan trắc Môi trường, Phòng thí nghiệm Công nghệ Sinh học của Đại học Huế.
Từ rất sớm, tại Kinh đô Huế đã hình thành tồn tại một Quốc sử quán triều Nguyễn-một trong những tiền đề của tiềm năng khoa học xã hội-nhân văn của tỉnh. Đến nay trên địa bàn tỉnh có 16 thư viện lớn và hàng chục thư viện nhỏ. Trung tâm Học liệu thuộc Đại học Huế là một trong những thư viện điện tử hiện đại nhất ở Việt Nam . Thư viện Tổng hợp tỉnh là một trong những thư viện có nguồn lực thông tin lớn nhất trong các thư viện cấp tỉnh trong cả nước.
Về nhân lực KHCN: Trên địa bàn Thừa Thiên Huế hiện có đội ngũ khoa học hùng hậu, vớitrên 400 tiến sĩ, tiến sỹ khoa học, 165 giáo sư, phó giáo sư, chuyên ngành đào tạo khá đa dạng. Nhiều nhà khoa học đã có những phát minh, sáng chế, có các công trình khoa học xuất sắc, có những bài báo đăng trên tạp chí khoa học thế giới.
Nghiên cứu khoa học được quan tâm, nhiều công trình nghiên cứu đã đóng góp luận cứ khoa học quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội, giữ gìn và phát huy các di sản văn hóa, tăng cường ứng dụng các tiến bộ khoa học-kỹ thuật trong 6 kỳ Festival Huế giúp cho Thừa Thiên Huế hình thành được “công nghệ tổ chức festival”, đáp ứng các yêu cầu xây dựng “thành phố Huế-thành phố festival đặc trưng của Việt Nam”. Có nhiều đề tài, dự án khoa học và công nghệ đã phục vụ đắc lực cho tỉnh cũng như cho các ngành, địa phương trong việc xây dựng các mục tiêu, giải pháp, đề án phát triển kinh tế-xã hội, tạo điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư.
Chuyển giao tiến bộ khoa học-kỹ thuật và ứng dụng thành tựu KH&CN đã có những kết quả bước đầu. Nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư dây chuyền công nghệ đồng bộ, tiên tiến, kết hợp với áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế vào sản xuất, kinh doanh, tạo ra nhiều sản phẩm thuộc hàng chất lượng cao của Việt Nam. Triển khai nhiều đề tài nghiên cứu thử nghiệm và ứng dụng kỹ thuật mới vào sản xuất tạo tiền đề cho việc chuyển đổi phương thức canh tác, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị cao, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của địa phương, nhất là khai thác có hiệu quả vùng cát nội đồng, vùng ven biển và gò đồi. Tiếp nhận và làm chủ được công nghệ sinh sản nhân tạo.
Đặc biệt, hoạt động ứng dụng các kỹ thuật mới trong lĩnh vực y học, khám chữa bệnh có sự phát triển vượt bậc. Một số kỹ thuật hiện đại đã được sử dụng thành công ở Bệnh viện Trung ương Huế, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế. Đã tiếp nhận, làm chủ và tổ chức chuyển giao một số kỹ thuật mổ phức tạp, đòi hỏi phải trình độ chuyên môn cao. Gần đây nhất các bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế đã thành công và làm chủ kỹ thuật ghép tim... Ngoài ra, các xí nghiệp sản xuất tân dược đã tăng cường đầu tư trang thiết bị, sản xuất được một số dược phẩm đạt tiêu chuẩn GMD-ASEAN.
Trong lĩnh vực công nghệ thông tin: Thừa Thiên Huế là một trong số ít tỉnh/thành của cả nước triển khai có hiệu quả Chương trình 47 của Đảng và Chương trình 112 của Chính phủ về tin học. Năm 2000, chỉ có 7 doanh nghiệp kinh doanh thiết bị công nghệ thông tin, đến năm 2010 có 62 doanh nghiệp; trong đó, 7 doanh nghiệp phần mềm, 51 doanh nghiệp phần cứng, 1 doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực nội dung số và 3 doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ công nghệ thông tin. Năm 2000, doanh thu chỉ vài tỷ đồng; đến năm 2009, các doanh nghiệp đã có doanh thu 363 tỷ đồng, đạt 1,74% GDP của tỉnh.
Giai đoạn 2000-2010, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước đạt được nhiều thành quả đáng ghi nhận: 100% các cơ quan chuyên môn thuộc tỉnh, UBND các huyện, thị xã, thành phố đã có mạng LAN, 34 đơn vị kết nối mạng WAN sử dụng công nghệ VPN với tốc độ 2 Mbps phục vụ công việc trong nội bộ cơ quan...; 100% đơn vị cấp tỉnh đã kết nối internet, tuyến cáp quang đã được triển khai về tận cấp huyện, xã trên toàn tỉnh. Đường truyền internet trực tiếp 40Mbps đủ cung cấp để vận hành các website của sở, ban ngành và dịch vụ công qua mạng. Ngoài ra, các tổ chức đoàn thể đều được trang bị máy tính kết nối phục vụ cho công việc; một số tổ chức, đoàn thể đã xây dựng website và vận hành khá tốt trên mạng internet, như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên... Các dịch vụ công cộng trong giáo dục, y tế được đầu tư hạ tầng hoàn chỉnh; 100% các trường, bệnh viện đã có kết nối internet, trong đó, Bệnh viện Trung ương Huế xây dựng Trung tâm Đào tạo với nhiều trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác khám, chữa bệnh.
Các doanh nghiệp từng bước nâng cao nhận thức, quan tâm và chủ động đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin. Tính đến năm 2010 đã có 90% doanh nghiệp kết nối internet, trên 2% doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mua bán trực tuyến; 12% doanh nghiệp đã có website giới thiệu các sản phẩm dịch vụ của mình.
Đầutư cho KH&CN: Mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nhưng tỉnh đã quan tâm nhiều cho KH&CN. Từ năm 2000 đến nay, tỷ lệ chi ngân sách của tỉnh cho KH&CN đã đạt xấp xỉ 2%. Các huyện, thành phố cũng bắt đầu có những đầu tư từ ngân sách địa phương để tổ chức ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống trên địa bàn phục vụ các mục tiêu kinh tế-xã hội của thành phố và các huyện. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, việc đầu tư cho các hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, chuyển giao hoặc đổi mới công nghệ, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật nhằm phát triển sản xuất có chú trọng hơn. Ngoài ra, các nhà khoa học nghiên cứu độc lập, các hội chuyên ngành và một số đơn vị tư nhân cũng đã đầu tư đáng kể cho hoạt động nghiên cứu ứng dụng.
Về tạo lập thị trường KH&CN:Các sản phẩmnghiên cứu khoa học, nhất là các sản phẩm quy trình công nghệ,các mô hình áp dụng thành công kết quả của các đề tài, dự án ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh được giới thiệu tại các hội nghị, hội chợ quốc tế, các chương trình quảng bá trong và ngoài tỉnh.Đã hình thành “Góc thư viện về Sở hữu trí tuệ”; tổ chức thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh; đã triển khai thực hiện đề án “Showroom Công nghệ”. Với việc tích cực xúc tiến tổ chức “Techmart chuyên đề Huế 2009”, đã có Phòng trưng bày và Chợ ảo công nghệ, thiết bị, sản phẩm công nghệ nhằm tạo lập và phát triển thị trường KH&CN bằng nhiều hình thức. Để trở thành trung tâm KH&CN, Thừa Thiên Huế hiện đang thiếu gì? Xin được nêu một số nét sau:
- Về đội ngũ, cũng như thực trạng chung của quốc gia, tỉnh còn thiếu chuyên gia trên một số lĩnh vực. Ngược lại, nguồn nhân lực KH&CN hiện chưa tận dụng hết. Cán bộ KH&CN có bài báo in trên tạp chí quốc tế, phát minh sáng chế còn ít. Chưa có sự liên kết chặt chẽ trong đội ngũ làm KH&CN. Sự gắn kết giữa nhà khoa học với nhà doanh nghiệp, nhà sản xuất, với thực tiễn chưa rõ, làm cho số lượng đề tài, dự án có giá trị thực tiễn còn ít. Thiếu cơ chế, chính sách để các nhà khoa học cống hiến và dành tâm sức cho khoa học, giáo dục đào tạo.
- Cơ sở vật chất, điều kiện dạy và học của Đại học Huế còn bất cập so với sự phát triển của quy mô, hạn chế đến chất lượng đào tạo. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ các nhiệm vụ KH&CN của tỉnh còn thiếu. Hiệu quả sử dụng các trang thiết bị sẵn có cũng như trang thiết bị mới còn thấp. Thiếu các cơ sở nghiên cứu, trung tâm hội nghị, hội thảo đạt chuẩn. Chưa có chínhsách hữu hiệu để thu hút các nhà khoa học trong và ngoài nước về tỉnh, nhất là trí thức, các nhà khoa học là con của quê hương Thừa Thiên Huế.
- Nhiều doanh nghiệp chưa thấy rõ ứng dụng tiến bộ KH&CN trở thành nhu cầu bức thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh, đầu tư cho KH&CN thấp. Tâm lý thiên về nhập thiết bị, máy móc, công trình, ít quan tâm đến nội dung chuyển giao công nghệ còn khá phổ biến, hạn chế phát huy nội lực của các nhà KH&CN. Liên kết giữa các trường đại học và các doanh nghiệp lỏng lẻo.
Giải pháp nào?
Đưa Thừa Thiên Huế thành trung tâm KH&CN tầm quốc gia và khu vực Đông Nam Á là định hướng của Bộ Chính trị, được tỉnh Thừa Thiên Huế cụ thể hóa và xác định là mục tiêu phấn đấu tại đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV. Vì vậy đây phải là vấn đề cần sự quan tâm của các bộ ngành trung ương và sự nỗ lực, quyết tâm cao cùng sự thực hiện sáng tạo của các ngành, các cấp trong tỉnh.
Đối với các bộ ngành liên quan, cần quan tâm đầu tư đối với Thừa Thiên Huế trong việc phát triển KH&CN, phát triển giáo dục đào tạo ngang tầm tiềm năng; đầu tư mạnh cho tỉnh về xây dựng cơ sở hạ tầng, cũng như phát triển công nghiệp, du lịch dịch vụ, cơ sở để Thừa Thiên Huế ứng dụng KH&CN, là điều kiện để tạo môi trường hoạt động cho trí thức, giữ chân và thu hút trí thức.
Đối với Bộ KH&CN cần nghiên cứu tham mưu cho chính phủ cơ chế chính sách về phát triển KH&CN trong tình hình mới, nhất là chính sách tài chính về nghiên cứu, ứng dụng KH&CN, chính sách đối với nhà khoa học, giúp họ sống tốt để có điều kiện cống hiến cho khoa học.
Đối với Thừa Thiên Huế, để đạt mục tiêu đưa Thừa Thiên Huế trở thành trung tâm KH&CN của quốc gia và khu vực phải đánh giá đúng tiềm năng thế mạnh, phải có nhận thức đúng về vai trò KH&CN trong các cấp các ngành, nhất là các doanh nghiệp và thực hiện các giải pháp đồng bộ. Xin được nêu rất khái quát, và chắc chắn là chưa đầy đủ các giải pháp sau đây:
- Về xây dựng đội ngũ các nhà khoa học, cần thực hiện triệt để Chương trình hành động số 21 của Tỉnh ủy về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức hiện có. Thu hút nhân lực về tăng cường các biện pháp khuyến khích nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức KH&CN. Tạo cơ chế, chính sách huy động các nhà khoa học Thừa Thiên Huế ở trong và ngoài nước, đồng thời thu hút các nhà khoa học tài năng, tâm huyết với tỉnh ở mọi nơi đến làm việc.
- Xã hội hóa nguồn lực đầu tư cho KH&CN. Chú trọng việc mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư KH&CN của các tổ chức khoa học, giáo dục, các doanh nghiệp có ngành công nghệ cao hiện đại. Các doanh nghiệp trên địa bàn cần có sự đầu tư mạnh hơn cho KH&CN, nhất là đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ.
- Cần thúc đẩy mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, ngành công nghiệp-trường đại học và viện nghiên cứu bởi nó đóng vai trò quan trọng làm cho việc đầu tư vào nghiên cứu và triển khai khoa học và công nghệ trở nên hiệu quả.
- Khảo sát, đánh giá để có cơ sở quy hoạch, xây dựng các thiết chế KH&CN trên địa bàn. Sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất KH&CN vốn có. Phát huy những lợi thế về di sản văn hóa trong xây dựng trung tâm KH&CN. Sử dụng di tích Trường Quốc Tử Giám để tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học, các hoạt động vinh danh tài năng, cống hiến cho khoa học. Trong quy hoạch đất, cần dành ưu tiên quỹ đất cho giáo dục đào tạo và việc xây dựng các thiết chế khoa học.
- Nâng cao năng lực của các tổ chức KH&CN, kể cả các Trung tâm Khuyến nông, Khuyến công, ứng dụng KH&CN; Trung tâm Giống và Kỹ thuật cây trồng, Trung tâm Y tế dự phòng, Trung tâm Khí tượng thủy văn; huy động mọi nguồn lực, phát huy sức lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức, sát cánh cùng mọi người nông dân, các doanh nghiệp trên mọi lĩnh vực kinh tế.








