Đổi mới hoạt động khoa học công nghệ gắn kết với doanh nghiệp góp phần phát triển ngành than và khoáng sản
Với nhiệm vụ nghiên cứu khoa hoc, xây dựng và triển khai thực hiện những công trình đổi mới công nghệ, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất trong giai đoạn 5 năm ( từ năm 2006 đến nay), Viện Khoa học Công nghệ Mỏ luôn đồng hành cùng các đơn vị trong Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, từng bước đưa trình độ công nghệ của ngành phát triển vững chắc ở hầu hết các lĩnh vực: khai thác hầm lò, khai thác lộ thiên, sàng tuyển, chế biến than, điện - tự động hóa, an toàn mỏ, điều kiện tự nhiên và môi trường, vật liệu nổ công nghiệp.v.v…
Trong những năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Nhà nước và Tập đoàn Công nghiệp Than - khoáng sản Việt Nam, Viện đã luôn đổi mới, phát triển toàn diện trên tất cả các mặt, đẩy mạnh hoạt động KHCN và sản xuất kinh doanh, gắn nghiên cứu với sản xuất, kết hợp hài hòa nghiên cứu tiến trước, nghiên cứu triển khai ứng dụng, chuyển giao công nghệ, sản xuất kinh doanh sản phẩm KHCN, tăng cường tiềm lực khoa học và đào tạo nguồn nhân lực.
Qua thực tế và kết quả hoạt động của Viện cho thấy, công tác nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ của Viện đã có nhiều chuyển biến. Trước đây, lấy việc thực hiện các đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ là chính, thì nay, Viện thực hiện các đề tài, dự án hợp đồng cấp cơ sở là chính, tức là hoạt động nghiên cứu và triển khai của Viện đã gắn liền với sản xuất. Viện trên danh nghĩa là đơn vị sự nghiệp nhưng thực tế đã chuyển sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự hạch toán, tự trang trải chi phí do không còn nguồn kinh phí sự nghiệp từ ngân sách và Tập đoàn cấp từ nhiều năm nay. Các đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ chủ yếu nhằm mục đích định hướng, nghiên cứu tiến trước và đề xuất cơ hội, còn đề tài cấp Tập đoàn và cấp cơ sở có nhiệm vụ biến các cơ hội đó vào thực tế sản xuất.
Nếu so sánh các đề tài các cấp Nhà nước, cấp Bộ (đề tài cấp cơ sở, hợp đồng dịch vụ KHKT thì tỷ trọng chỉ chiếm khoảng 10% - 15%, còn lại các hợp đồng dịch vụ KHKT (hoạt động KHCN có thu) chiếm từ 85 - 90%, đó là chưa kể đến các hoạt động KHCN khác cũng là nguồn thu quan trọng, đáng kể của Viện như các dự án liên doanh, liên kết .v.v… Từ tháng 10/2010, Viện chính thức chuyển đổi thành tổ chức khoa học và công nghệ tự trang trải kinh phí theo Nghị định 115/2005/NĐ - CP (QQĐ số 2335/QĐ – HĐTV ngày 28/9/2010 của Tập đoàn Vinacomin)
Một số chỉ tiêu đạt được của Viện trong năm 2010: Tổng sản lượng thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, dịch vụ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và sản xuất kinh doanh đạt 486 tỷ đồng. Tỉ trọng nghiên cứu khoa học, dịch vụ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ là 81,9%; từ hoạt động sản xuất kinh doanh là 18,1%; nộp ngàn sách trên 16 tỷ đồng; lợi nhuận đạt 13,5 tỷ đồng; thu nhập bình quân toàn Viện trên 8,0 triệu đồng/người/tháng (cán bộ nghiên cứu trên 10 triệu đồng/người/tháng).
Đạt được kết quả trên là nhờ sự hỗ trợ của Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công Thương, sự chỉ đạo sát sao của Tập đoàn Vinacomin, sự phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp sản xuất than, khoáng sản và sự mạnh dạn tự vận dụng xây dựng mô hình hoạt động cho chính mình của Viện. Đặc biệt, phương thức và mô hình hoạt động được thể hiện:
Thứ nhất: Quan tâm xây dựng, hoàn thiện cơ chế quản lý, điều hành của Viện: Viện thực hiện việc quản lý, điều hành theo cơ chế quản lý tập trung và cơ chế quản lý này đã được khẳng định là đúng đắn qua thực tế hoạt động; mọi hoạt động của Viện được điều hành theo hệ thống quản lý thống nhất từ lãnh đạo Viện đến giám đốc các đơn vị trực thuộc và các trưởng, phó phòng chuyên môn nghiệp vụ trên cơ sở tăng cường vai trò đôn đốc, kiểm tra giám sát, quản lý điều hành của thủ trưởng các đơn vị. Đồng thời, Viện quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý, các quy chế quản lý như quy chế quản lý công tác kế hoạch, tài chính, quy chế quản lý cán bộ, quy chế tuyển dụng, quy chế đào tạo, quy chế thi đua khen thưởng, kỷ luật v.v… qua đó tạo dựng hành lang pháp lý cho mọi hoạt động của Viện phù hợp với chế độ chinh sách của Nhà nước, các quy chế của Tập đoàn và tình hình thực tế của Viện.
Thứ hai: Đổi mới mở rộng lĩnh vực hoạt động, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của Tập đoàn trong hoạt động KHCN, Viện đặc biệt quan tâm chỉ đạo nghiên cứu, giải quyết thành công nhiều vấn đề khoa học công nghệ trọng điểm và tổ chức triển khai từ thí điểm đến nhân rộng những mô hình áp dụng, chuyển giao công nghệ vào thực tiễn sản xuất, nâng cao hiệu quả, chủ động tạo ra cho mình thị trường tiêu thụ những sản phẩm nghiên cứu khoa học công nghệ trên nhiều lĩnh vực, đáp ứng những yêu cầu bức xúc của sản xuất, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển khoa học công nghệ của ngành, mà cụ thể là triển khai một số mô hình hoạt động mới gắn kết với sản xuất như:
1.Triển khai mô hình tổng thầu EPC từ công tác nghiên cứu, tư vấn thiết kế, cung ứng vật tư thiết bị công nghệ mới, xây dựng, lắp đặt và đào tạo hướng dẫn chuyển giao công nghệ trên nền tảng các sản phẩm khoa học công nghệ của chính mình. Tổng doanh thu từ mô hình tổng thầu EPC tăng dần từ 139,9 tỷ đồng anwm 2009, năm 2010 đạt 335 tỷ đồng. Giá trị tư vấn, đào tạo hướng dẫn vận hành và chuyển giao công nghệ đem lại cho Viện chiếm 20% - 30% tổng doanh thu.
![]() |
Cụ thể, trong những năm gần đây, các kết quả nghiên cứu và chuyển giao công nghệ tuyển than bã sàng và than chất lượng xấu bằng công nghệ huyền phù tang quay và huyền phù tự sinh (đề tài cấp Bộ) đã được Viện triển khai áp dụng vào sản xuất thử nghiệm cấp Nhà nước “ Xây dựng và áp dụng thử nghiệm dây chuyền tuyển than trong bã sàng bằng công nghệ huyền phù kiểu tang quay và huyền phù tự sinh cho các mỏ than vùng Quảng Ninh”. Đến nay Viện đã thiết kế, xây dựng và phối hợp với các đơn vị lắp đặt và đưa vào hoạt động 15 dây chuyền tuyển than bã sàng và than chất lượng xấu tại các công ty than Uông Bí, Núi Béo, Mạo Khê, Đèo Nai, Cọc Sáu, Quang Hanh, Hà Lầm.v.v… với các moodul công suất từ 250.000 tấn/năm đến 650.000 tấn/năm. Tổng mức đầu tư của một dự án dao động 5,26 – 24,4 tỷ đồng.
2.Mở rộng mô hình liên kết với các đơn vị sản xuất ứng dụng công nghệ và thiết bị mới do Viện đề xuất theo các hình thức khác nhau như hỗ trợ kỹ thuật; nhận thầu thực hiện cho doanh nghiệp một trong những công đoạn sản xuất có ứng dụng sản phẩm công nghệ của Viện đảm bảo giá thành thấp hơn so với giá thành doanh nghiệp tự làm; phối hợp đầu tư với doanh nghiệp áp dụng tiến bộ kỹ thuật do mình đề xuất. Gắn trách nhiệm của Viện trong công tác tư vấn nghiên cứu triển khai với doanh nghiệp sản xuất thực hiện các giải pháp kỹ thuật công nghệ mới do Viện đề xuất.
Việc đổi mới công nghệ có đóng góp to lớn của công tác nghiên cứu triển khai và tư vấn KHCN. Các đề tại nghiên cứu dự án thử nghiệm các cấp Nhà nước, Bộ Công Thương, Tập đoàn Vinacomin… được triển khai có hiệu quả. Có thể kể đến một số công trình nổi bật sau:
- “Nghiên cứu lựa chọn công nghệ cơ giới hóa khai thác các vỉa dày, dốc trên 45 0tại các mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh”. Đây là công trình nghiên cứu áp dụng thử nghiệm cơ giới hóa khai thác vỉa dày dốc bằng tổ hợp dàn chống KDT-1 kết hợp với máy combai AM-50Z tại vỉa 7 Tây Vàng Danh từ tháng 7 năm 2007 và đã đi vào sản xuất ổn định. Kết quả nghiên cứu theo dõi, đánh giá và hoàn thiện công nghệ trong giai đoạn áp dụng thử nghiệm có thể khẳng định các thông số của sơ đồ công nghệ cơ giới hóa trên phù hợp với điều kiện sản trạng vỉa và điều kiện kỹ thuật khai thác tại Vàng Danh và bước đầu đạt một số chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật như công bố lò chợ đạt 5802 tấn/tháng, năng suất lao động 2,84 – 12,61 tấn/công, trung bình 7,2 tấn/công, mang lại lợi nhuận 17.201 đồng/tấn, đảm bảo an toàn lao động và làm chủ công nghệ khai thác;
- “Nghiên cứu lựa chọn công nghệ cơ giới hóa khai thác và thiết kế chế tạo dàn chống tự hành phù hợp áp dụng đối với điều kiện địa chất các vỉa dày dốc đến 35 0vùng Quảng Ninh”. Năm 2007, trên cơ sở kết quả đề tài, Viện đã liên kết với hãng ALTA ( Cộng hòa Séc) theo hình thức nhận thầu khai thác than bàng đồng bộ thiết bị cơ giới hóa máy khấu combai kết hợp dàn chống tự hành chế tạo ở Việt Nam tại công ty than Vàng Danh với tổng mức đầu tư thiết bị công nghệ mới 174,2 tỷ đồng (phần vốn của Viện 40%), thu hồi vốn đầu tư thông qua tần than khai thác theo giá thành phân xưởng 162 ngàn đồng/tấn (bằng 96% so với giá thành phân xưởng áp dụng công nghệ truyền thống của mỏ). Sau 16 tháng khai thác, tổng sản lượng khai thác đạt 243.500 tấn than.
Từ kết quả đạt được tại Vàng Danh, năm 2009, Viện đã giao thực hiện Dự án: “Hoàn thiện công nghệ cơ giới hóa khai thác các vỉa than dày, dốc đến 350 ở các mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh bằng dàn chống tự hành chế tạo tại Việt Nam “. Viện tiếp tục triển khai thực hiện phương án hợp tác kinh doanh áp dụng khai thác than bằng công nghệ cơ giới hóa đồng bộ tại Công ty than Nam Mẫu với tổng vốn đầu tư là 240 tỷ đồng. Viện tham gia góp vốn đầu tư 72 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 30% từ nguồn vốn vay hỗ trợ không lãi xuất của Tập đoàn, thu hồi vốn thông qua sản lượng than khai thác (Viện được hưởng 17,2% sản lượng) từ lò chợ trong tổng số trữ lượng huy động vào khai thác 3.600.000 tấn hoặc trong vòng 8 năm khai thác. Lò chợ đã được đưa vào hoạt động từ tháng 8/2010 tại vỉa 6 khu Than Thùng – Công ty than Nam Mẫu.
3.Viện cũng đã mở rộng hoạt động bằng hình thức tham gia đầu tư, góp vốn với một số công ty như Công ty Cổ phần Chế tạo Thiết bị và Xây lắp Công trình – Vinacomin với vốn cố định 72 tỷ đồng, trong đó Viện tham gia 10% vốn cố định nhằm thực hiện toàn bộ công tác tư vấn kỹ thuật cho Công ty. Viện đang hoàn tất các thủ tục với đối tác Viện Nghiên cứu Quốc gia về Vật liệu kết cấu trên cơ sở graphit của LB Nga thành lập Công ty Cổ phần công nghệ cao Việt Nga – Vinacomin nhằm mục tiêu hoạt động trong các lĩnh vực công nghệ vật liệu carbon từ công tác tư vấn, chuyển giao công nghệ đến sản xuất và đào tạo nguồn nhân lực,v.v… với vốn đầu tư 1 triệu đôla Mỹ, trong đó mỗi bên đóng góp 50%.
Hiệu quả mang lại từ các mô hình hoạt động mới, dự án liên kết áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới, tham gia đầu tư vốn đã và đang giúp Viện trong đầu tư bổ sung cơ sở vật chất phòng thí nghiệm, trụ sở làm việc, đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao thu nhập cho cán bộ viên chức.
Gắn kết với thực tiễn sản xuất là phương châm hoạt động nghiên cứu triển khai của Viện Khoa học Công nghẹ Mỏ. Các công trình nghiên cứu khoa học đã được áp dụng vào sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế to lớn. Với bề dày 39 năm xây dạng và phát triển, Viện đang trong quá trình xây dựng và phát triển với đội ngũ cán bộ nghiên cứu có trình độ chuyên môn cao, cơ sở vật chất kĩ thuật được trang bị hiện đại, phấn đấu trở thành một địa chỉ tin cậy đối với đối tác trong và ngoài nước, thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu tư vấn, chuyển giao công nghệ, góp phần vào sự nghiệp đổi mới và phát triển bền vững ngành Than và Khoáng sản Việt Nam./.









