Đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
Hệ thống quản lý GDĐH ở nước ta trước đây và hiện nay
Trước thời kỳ đổi mới GDĐH nước ta được quản lý theo hệ thống kế hoạch hóa tập trung. Chỉ tiêu đào tạo hàng năm được giao cho các trường đại học theo kế hoạch Nhà nước, kinh phí đào tạo kể cả học bổng cho toàn bộ sinh viên được Nhà nước cấp từ ngân sách, sinh viên tốt nghiệp được Nhà nước phân phối về các cơ sở kinh tế quốc doanh và cơ quan Nhà nước. Chương trình đào tạo cũng được Nhà nước quy định xem như một sự đặt hàng. Đội ngũ cán bộ quản lý, viên chức, giáo dục chủ yếu cũng được quản của trường đại học. Trong khung cảnh đó, chất lượng cũng được quản lý tập trung, được kiểm soát "nghiêm ngặt".
GDĐH bắt đầu được đổi mới từ năm 1987, sau Đại hội Đảng CSVN lần thứ VI. Trong quá trình đổi mới, quyền tự chủ của các trường đại học ngày càng được nâng cao. Về tài chính, các trường được tìm thêm các nguồn ngoài ngân sách Nhà nước qua học phí của sinh viên và thu khác nhờ các hợp đồng đào tạo, nghiên cứu khoa học, sản xuất, dịch vụ xã hội. Về kế hoạch, ngoài chỉ tiêu đào tạo do Nhà nước giao, các trường có thể đề xuất quy mô tuyển sinh dựa vào khả năng đào tạo do Nhà nước giao, trường Đại học có thể đề xuất quy mô tuyển sinh dựa vào khả năng đào tạo của mình và nhu cầu xã hội. Về mặt chuyên môn, trường đại học có quyền dựa vào những định mức tổng quát của Bộ về khung chương trình và tỷ lệ các khối kiến thức để xây dựng chương trình đào tạo các ngành chuyên môn; đề xuất các ngành đào tạo mới khi xã hội có nhu cầu; biên soạn sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy. Về quan hệ quốc tế, trường đại học có quyền đặt quan hệ và ký kết các văn bản hợp tác với các trường đại học nước ngoài. Rõ ràng quyền tự chủ nói trên đã tạo điều kiện cho các trường đại học chủ động triển khai rất nhiều hoạt động có hiệu quả, góp phần đưa hệ thống đại học nước ta thoát ra khỏi những thời kỳ hết sức khó khăn và đem lại nhiều thành tựu mới.
Ngoài việc đổi mới về cơ chế quản lý, một số tổ chức trường đại học mới cũng ra đời. Từ năm 1994 hai trường đại học quốc gia Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh và 3 trường đại học khu vực ở Thái Nguyên, Huế, Đà Nẵng được tổ chức theo mô hình đại học đa lĩnh vực, trong đó hai trường đại học quốc gia được giao quyền tự chủ khá cao. Sau đó các trường đại học và cao đẳng ngoài công lập ra đời, và cho đến năm 2008 trong cả nước đã có 61 trường đại học và cao đẳng ngoài công lập, đào tạo khoảng 12% trong tổng số hơn 1,6 triệu sinh viên đại học trong nước. Các trường này hoạt động theo những quy định quyền tự chủ khá rộng rãi về tổ chức, tài chính và học thuật.
Các cấp độ quản lý chất lượng giáo dục đại học
Với sự phát triển của xã hội loài người, công nghiệp và dịch vụ ngày càng phát triển, hàng hóa được sản xuất ngày càng nhiều và con người ngày càng quan tâm đến chất lượng. Chính vì lẽ đó mà khoa học quản lý chất lượng được hình thành, trước hết ở trong công nghiệp, sau đó được đưa vào áp dụng cho GDĐH. Với ba cấp độ quản lý chất lượng, Đảm bảo chất lượng và Quản lý chất lượng tổng thể.
Kiểm soát chất lượng là hình thức quản lý chất lượng đã được sử dụng lâu đời nhất, được thực hiện ở khâu cuối cùng trong quá trình sản xuất đào tạo nhằm phát hiện và loại bỏ toàn bộ hay từng phần sản phẩm cuối cùng không đạt các chuẩn mực chất lượng.
Đảm bảo chất lượng là cấp độ quản lý chất lượng tiến bộ hơn kiểm soát chất lượng, được thực hiện trước và trong quá trình sản xuất/ đào tạo. Đảm bảo chất lượng nhằm phòng ngừa sự xuất hiện những sản phẩm có chất lượng thấp. Chất lượng được thiết kế theo các chuẩn mực và đưa vào quá trình sản xuất hoặc đào tạo nhằm bảo đảm sản phẩm đầu ra đạt được những thuộc tính đã định trước. Đảm bảo chất lượng là phương tiện tạo ra sản phẩm không có sai sót do lỗi trong quá trình sản xuất hay đào tạo gây ra vì thế chất lượng được giao phó cho mỗi người tham gia trong quá trình sản xuất hay đào tạo.
Quản lý chất lượng tổng thể là cấp độ quản lý chất lượng cao nhất hiện nay. Quản lý chất lượng tổng thể có mối quan hệ chặt chẽ với đảm bảo chất lượng, tiếp tục và phát triển hệ thống đảm bảo chất lượng. Quản lý chất lượng là việc tao ra nền văn hoá chất lượng, nơi mà mục đích của mọi người trong tổ chức kinh doanh hay nhà trường là làm hài lòng khách hàng hay làm hài lòng người học. Những nơi như thế không cho phép họ cung cấp các sản phẩm có chất lượng thấp.
Giáo dục đại học Việt Nam đang ở đâu?
Theo xếp hạng của ĐH Giao thông Vận tải Trung Quốc với 2.000 trường được xem xét thì không có tên một trường ĐH nào của Việt Nam . Xếp hạng 100 trường ĐH hàng đầu thế giới cuả tạp chí Asia Week của Châu Á xếp hạng các trường theo 5 tiêu chí chất lượng thì ĐH Việt Nam cũng chưa có tên trong danh sách nước có trường ĐH top đầu châu Á - Thái Bình Dương. Với xếp hạng của Webometrics, không có một trường nào của Việt Nam trong xếp hạng châu Á - Thái Bình Dương. Trong bảng xếp hạng top 100 khu vực Đông Nam Á, Việt Nam có 7 trường được xếp hạng, trên Lào và Campuchia. Webometrics xếp hạng các trường dựa trên việc phân tích, đánh giá nội dung học thuật và nghiên cứu khoa học được đăng tải trên website các trường ĐH trên mạng Internet.
Ông Phạm Duy Hiển, Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia, đã có một so sánh nhỏ với Thái Lan. Mặc dù các trường ĐH hàng đầu của Thái Lan chưa có điểm số về thành tích nghiên cứu khoa học trong các bảng xếp hạng nhưng các công bố quốc tế của họ tăng nhanh và ổn định. Số bài báo của ĐH Chulalongkorn của Thái Lan tăng đều theo cấp số nhân, hoàn toàn tương phản với hai ĐH Quốc gia Việt Nam (sau hơn 10 năm số lượng công trình vẫn giẫm chân tại chỗ). Năm 2006, ĐH Chulalongkorn công bố trên 300 bài báo làm ngay trên đất Thái, trong khi mỗi ĐH hàng đầu của Việt Nam chỉ có 5-7 bài, mà phần lớn là về toán và vật lý lý thuyết.
Ông Arjan Koeslag, cố vấn trưởng dự án GDĐH Việt Nam - Hà Lan, đưa ra 4 điểm yếu của GDĐH Việt Nam như sau: khả năng thích ứng với các nhu cầu xã hội còn hạn chế; các mối quan hệ giữa trường ĐH và thị trường lao động còn yếu; chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy chưa cập nhật; nguồn tài chính thấp… Ngân hàng ADB cũng đã điều tra và có một số phát hiện như: nguyên nhân cơ bản của việc không tuyển được những người thích hợp là sinh viên không đáp ứng yêu cầu tối thiểu. Các đơn vị cần kỹ năng thực hành và các phẩm chất chung (tính sáng tạo, khả năng giao tiếp…) hơn là kiến thức quá lý thuyết mà sinh viên có được ở trường ĐH. Chỉ khoảng 20% người lao động cho rằng công việc của họ liên quan đến kiến thức được học. Mặt khác, tỷ lệ tuyển sinh chung vẫn còn ở dưới mức so với các nước đang hoạt động tốt trong khu vực. Các nhóm thu nhập thấp có khả năng vào ĐH kém hơn các nhóm có thu nhập cao. GDĐH chưa tạo được nhiều cơ hội cho tất cả sinh viên tài năng.
Báo cáo của Quỹ Giáo dục Việt Nam - Hoa Kỳ về hiện trạng GDĐH trong một số ngành ở Việt Nam, cũng đã đưa ra kết luận về 5 nhóm vấn đề then chốt mà GDĐH Việt Nam cần thay đổi. Họ đã đưa ra một số ý kiến đề nghị Bộ GD&ĐT xem xét như: Mở rộng hệ thống giáo dục ĐH tạo điều kiện cho học sinh trung học có nhiều cơ hội hơn để theo học ĐH; giao các trường trọng điểm đào tạo giảng viên giỏi… Theo họ, giáo dục ĐH còn những hạn chế như: chương trình có quá nhiều môn học, nội dung lỗi thời và không dựa trên những mong đợi rõ ràng về kết quả học tập của sinh viên ở đầu ra; thiếu giảng viên có đủ trình độ…
Phương hướng phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam
Một là, hoàn chỉnh mạng lưới các cơ sở GDĐH trên phạm vi toàn quốc, có sự phân tầng về chức năng, nhiệm vụ đào tạo, đảm bảo hợp lý cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền, phù hợp với chủ trương xã hội hóa giáo dục và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và của các địa phương.
Hai là, phát triển các chương trình GDĐH theo định hướng nghiên cứu nghề nghiệp - ứng dụng. Bảo đảm sự liên thông giữa các chương trình trong toàn hệ thống. Xây dựng và hoàn thiện các giải pháp bảo đảm chất lượng và hệ thống kiểm định GDĐH. Xây dựng một vài trường đại học đẳng cấp quốc tế.
Ba là,mở rộng quy mô đào tạo, đạt tỷ lệ 200 sinh viên/ 1 vạn dân vào năm 2010 và 450 sinh viên/ 1 vạn dân vào năm 2020, trong đó khoảng 70-80% tổng số sinh viên theo học các chương trình nghề nghiệp - ứng dụng vào khoảng 40% tổng số sinh viên thuộc các cơ sở GDĐH ngoài công lập.
Bốn là, xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý GDĐH đủ về số lượng, có phẩm chất đạo đức và lương tâm nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn cao, phong cách giảng dạy và quản lý tiên tiến; bảo đảm tỷ lệ sinh viên/giảng viên của hệ thống GDĐH không quá 20. Đến năm 2010 có ít nhất 40% giảng viên đạt trình độ thạc sỹ và 25% đạt trình độ tiến sĩ; đến năm 2020 có ít nhất 60% giảng viên đạt trình độ thạc sỹ và 35% đạt trình độ tiến sĩ.
Năm là,nâng cao quy mô và hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ sở GDĐH. Các trường đại học lớn phải là các trung tâm nghiên cứu khoa học và công nghệ, sản xuất và dịch vụ đạt tối thiểu 15% tổng nguồn thu của các cơ sở GDĐH vào năm 2010 và 25% vào năm 2020.
Sáu là,hoàn thiện chính sách phát triển GDĐH theo hướng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của cơ sở GDĐH, sự quản lý của Nhà nước và vai trò giám sát, đánh giá của xã hội đối với GDĐH.
Nhiệm vụ và giải pháp nâng cao chất lượng GDĐH
Để nâng cao chất lượng GDĐH đáp ứng nhu cầu về lao động cho xã hội, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
Thứ nhất:Đổi mới cơ cấu đào tạo và hoàn thiện mạng lưới cơ sở GDĐH.
Ưu tiên mở rộng quy mô các chương trình định hướng nghề nghiệp - ứng dụng; áp dụng quy trình đào tạo mềm dẻo, liên thông, kết hợp mô hình truyền thống với mô hình đa giai đoạn để tăng cơ hội học tập và phân tầng trình độ nhân lực. Thực hiện tốt việc chuyển đổi cơ chế hoạt động của các cơ sở GDĐH công lập; chuyển cơ sở GDĐH bán công và một số cơ sở GDĐH công lập sang loại hình tư thục; hoàn thiện mô hình trường cao đẳng cộng đồng và xây dựng quy chế chuyển tiếp đào tạo với các trường đại học, củng cố các đại học mở rộng để có thể mở rộng quy mô hình tổ chức và có kế hoạch cụ thể sáp nhật cơ sở GDĐH với các cơ sở nghiên cứu khoa học để găn chặt chẽ đào tạo nghiên cứu khoa học và sản xuất, kinh doanh. Tập trung đầu tư, huy động chuyên gia trong và ngoài nước và có cơ chế phù hợp để xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế.
Thứ hai:Đổi mới nội dung, phương pháp và quy trình đào tạo.
Cơ cấu lại khung chương trình; bảo đảm sự liên thông của các cấp học; giải quyết tốt mối quan hệ về khối lượng kiến thức và thời lượng học tập giữa các môn giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp, nâng cao hiệu quả đào tạo của từng môn học. Đổi mới nội dung đào tạo, gắn chặt chẽ với thực tiễn nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và nghề nghiệp trong xã hội, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, lĩnh vực, tiếp cận trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển tiềm năng nghiên cứu sáng tạo, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực hoạt động trong cộng đồng và khả năng lập nghiệp của người học.
Triển khai đối mới phương pháp đào tạo. Xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ, tạo điều kiện thuận lợi để người học tích luỹ kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên thông, chuyển tiếp tới các cấp học tiếp theo ở trong nước và ở ngoài nước.
Đổi mới cơ chế giao chỉ tiêu tuyển sinh theo hướng gắn với điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo, yêu cầu sử dụng nhân lực, nhu cầu học tập của nhân dân và tăng quyền tự chủ của các cơ sở GDĐH.
Thứ ba:Đổi mới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng giảng viên và cán bộ quản lý.
Xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý GDĐH, đảm bảo đủ về số lượng, nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới GDĐH. Đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng giảng viên và cán bộ quản lý GDĐH. Đổi mới phương thức tuyển dụng theo hướng khách quan, công bằng và có yếu tố cạnh tranh. Xây dựng và ban hành chính sách mới đối với giảng viên. Đổi mới quy định bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư theo hướng giao cho cơ sở GDĐH thực hiện dựa trên tiêu chuẩn do Nhà nước quy định.
Thứ tư:Đổi mới tổ chức triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ.
Nhà nước đầu tư nâng cấp, xây dựng mới một số cơ sở nghiên cứu mạnh trong các cơ sở GDĐH. Khuyến khích thành lập các cơ sở nghiên cứu, các doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học giáo dục. Thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ. Quy định cụ thể nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của giảng viên, gắn việc đào tạo nghiên cứu sinh với việc thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ.
Thứ năm: Đổi mới việc huy động nguồn lực và cơ chế tái chính.
Nhà nước tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho GDĐH, đồng thời có chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực GDĐH; bảo đảm quyền sở hữu theo pháp luật và quyền lợi vật chất và tinh thần của nhà đầu tư.
Thứ sáu: Đổi mới cơ chế quản lý.
Chuyển các cơ sở GDĐH công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về đào tạo, nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài chính.








