Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 10/06/2013 22:08 (GMT+7)

Đôi điều suy luận về bằng thời Minh Mạng cấp cho những người đi Hoàng Sa

Văn bản cổ của họ Đặng ở đảo Lý Sơn

Trong suốt thời gian qua, kể từ ngày 31/3/2009, ngày chúng tôi được gia tộc họ Đặng làng An Hải, huyện Lý Sơn bàn giao văn bản cổ của dòng họ liên quan đến chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa, nhiều phương tiện thông tin đại chúng trong nước lẫn ngoài nước đã đưa tin, bình luận về việc phát hiện, cũng như sự tự nguyện hiến tặng, bàn giao cho nhà nước một văn bản cổ mà gia tộc họ Đặng ở thôn Đồng Hộ, làng An Hải, huyện Lý Sơn đã gìn giữ suốt 175 năm qua.

 Về nội dung văn bản cổ này, dù có một vài sai sót nhỏ mà báo chí đưa tin ngay sau ngày chúng tôi tiếp cận văn bản cũng không làm mất đi giá trị đích thực của văn bản (như về niên đại, một vài tờ báo, vài trang web ghi là năm Ất Mùi – 1835, mà đúng ra phải là năm Giáp Ngọ – 1834; hoặc về chủ thể văn bản, không phải là vua Minh Mạng mà là của “quan Bố – Ấn”, tức của quan Bố chánh và Án sát, như có viết ở trang đầu văn bản, và vì thế cũng không thể gọi là “sắc chỉ”). Dù không phải sắc chỉ của vua, hoặc lệnh của Bộ Binh, nhưng chúng ta cũng thấy rằng, việc đi Hoàng Sa lẫn Trường Sa để đo đạc, vẽ bản đồ, cắm mốc, dựng bia chủ quyền, trồng cây trên đảo là có sự chỉ đạo thống nhất của nhà nước phong kiến Việt Nam, đặc biệt là vào thời Minh Mạng. Sự chỉ đạo thống nhất từ trung ương tới địa phương về việc đi Hoàng Sa – Trường Sa thể hiện rõ trong các bộ chính sử của triều Nguyễn, như Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ. .., hoặc trong các châu bản triều Nguyễn. Nội dung của văn bản này cũng đã thể hiện rõ điều đó, vì ngay chính ở dòng đầu của trang đầu tiên cũng đã ghi là (quan Bố – Ấn) “vâng lệnh của Bộ Binh”!

Nhưng vì sao lại chỉ có quan Bố chánh và Án sát đồng đóng dấu triện trên văn bản cổ này? Sao không thấy sự hiện diện của quan Tuần phủ? Chúng ta biết rằng, tỉnh Quảng Ngãi được chính thức thành lập (là đơn vị cấp tỉnh) vào năm 1832 (năm Minh Mạng thứ 13). Theo Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn, và cả những ghi chép trong Hải Nam tạp trứ của Thái Đình Lan – một nho sinh Đài Loan bị gió bão đánh trôi giạt vào bờ biển tỉnh Quảng Ngãi vào thời điểm này, mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu, lúc bấy giờ, tỉnh Quảng Ngãi chưa có quan Tuần phủ riêng. Mãi đến tháng 6 (nhuận) năm Minh Mạng thứ 16 (1835) tiến sĩ Phan Thanh Giản mới được bổ nhiệm làm Bố chính Quảng Nam kiêm Tuần phủ Nam-Ngãi (cả Quảng Nam lẫn Quảng Ngãi, nhưng chỉ đóng dinh thự ở Quảng Nam). Hai vị quan trực tiếp xử lý toàn bộ công việc chính trị, hành chính, quân sự… tại Quảng Ngãi là Bố chánh (mà lúc đó Ty Bố chánh gọi là Ty Phiên) và Án sát (Ty Án sát gọi là Ty Niết). Hai ty Phiên và Niết đều đặt tại tỉnh thành Quảng Ngãi (nằm trong khu vực cổ thành). Bố chánh Quảng Ngãi năm 1834 là Lê Nguyên Trung, rồi sau đó là Trương Văn Uyển, năm 1835 là Tôn Thất Bạch; Án sát Quảng Ngãi năm 1834 và 1835 là Nguyễn Đức Hội rồi Nguyễn Thế Đạo, và sau đó là Đặng Kim Giám (hiện nay gia tộc họ Đặng huyện Hậu Lộc, Thanh Hoá cũng đã cung cấp cho chúng tôi một số tài liệu Hán Nôm liên quan đến ông Đặng Kim Giám, rất tiếc chưa có điều kiện kê cứu trong bài viết này). Khi cần ban một quyết định cơ mật, thì cả quan Bố chánh và Án sát cần phải hiệp y. Vì thế ta không có gì ngạc nhiên khi trên văn bản cổ này có đóng dấu của quan Án sát lẫn quan Bố chánh. Và cũng chính từ hai con dấu đỏ đóng trên văn bản này, chúng ta cũng có thể suy luận thêm, việc cử các ông Võ Văn Hùng, Đặng Văn Siểm, và nhiều người khác (có ghi trong văn bản) đi Hoàng Sa còn là một việc hết sức quan trọng và cơ mật.

Họ là những ai trong “tờ lệnh” đi Hoàng Sa?

Trong văn bản cổ của dòng họ Đặng làng An Hải, Lý Sơn có nói rõ về thời gian ấn định để các phái viên, biền binh, thuỷ thủ đi Hoàng Sa, đó là: cứ vào hạ tuần tháng 3 hàng năm. Lần giở các bộ chính sử như Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ … và châu bản của triều Nguyễn, lẫn các tài liệu khác có nói về những chuyến hải trình đi Hoàng Sa vào các năm 1834, 1835, 1836, 1837, 1838… tức là các Minh Mạng thứ 15, 16, 17, 18, 19…, sẽ thấy danh tính những cai đội, đội trưởng, chánh đội trưởng suất đội, như Trương Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật, Phạm Văn Biện, các hướng dẫn viên đường thuỷ như Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh, các viên giám thành vẽ hoạ đồ Hoàng Sa là Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Hoàng… Tên tuổi họ rõ ràng là có được ghi trong sử sách, dù trong số đó có năm, những người đi Hoàng Sa, đo vẽ bản đồ Hoàng Sa chưa thật sự hoàn thiện, lại về chậm trễ nên mỗi người bị phạt 80 trượng, như chuyến đi Hoàng Sa năm Minh Mạng thứ 16 (1835) mà cai đội Phạm Văn Nguyên dẫn đầu. Nhưng còn hàng trăm binh phu, thuỷ thủ đã cùng đi với họ trong những năm này đều là vô danh. Điều đó không có gì là lạ, bởi sử sách không thể nào ghi đầy đủ tên tuổi, bản quán của tất cả binh phu cùng đi với họ trong từng năm một. Dù không phải đi Hoàng Sa, lẫn Trường Sa, tất cả đều phải hy sinh, nhưng hàng trăm ngôi mộ gió còn hiện diện trên đất đảo Lý Sơn cũng đã cho chúng ta nghĩ về một sự hy sinh thầm lặng không hề nhỏ.

Giờ đây, khi nghĩ về những người lính vô danh đã từng đi Hoàng Sa, cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền, chúng ta càng tiếc nuối, khi nghĩ rằng, giá như các châu bản của triều Nguyễn không vì chiến tranh, vì mối mọt, vì bày bán cùng với giấy lộn ở chợ Đông Ba, Nam Phố trong hơn 60 năm trước thì có lẽ chúng ta còn biết thêm tên tuổi của họ (trong số hơn 3.200 tập – theo Viện Hán Nôm, mà mỗi tập dày từ 6 đến 10cm, với trên dưới 600 trang giấy viết tay; đến năm 1975, sau khi kiểm kê chỉ còn có 611 tập, tức chỉ còn có 1/5 trong số ấy). Và cũng vì thế, có thể nói, văn bản cổ của dòng họ Đặng lưu giữ 175 năm qua, không chỉ góp phần bổ sung cho những điều ghi trong chính sử, châu bản của Nguyễn, mà còn xác lập thêm một số danh tính của những “hùng binh Hoàng Sa” như cách gọi của vua Tự Đức.

Họ là những ai trong văn bản cổ này? Người đầu tiên phải nhắc tới, đó chính là Võ Văn Hùng. Văn bản cổ của dòng họ Đặng cho biết, Võ Văn Hùng giỏi việc đi thuyền, rành rẽ hải phận, là người đã được cử đi từ năm trước (1833), nên lần này (1834) lại được quan Án sát và Bố chánh tỉnh Quảng ngãi tiếp tục giao nhiệm vụ tuyển chọn thêm những binh phu am hiểu hải trình, đưa các phái viên ở kinh thành, biền binh, thuỷ quân thẳng tiến ra đảo Hoàng Sa.

Như đã nói ở trên, vào năm Minh Mạng thứ 16 (Ất Mùi – 1835), chuyến đi Hoàng Sa về chậm trễ, đo vẽ bản đồ chưa chu toàn, cai đội Phạm Văn Nguyên và các viên giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiện, Nguyễn Văn Hoàng bị phạt mỗi người 80 trượng, nhưng Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh, là những người có công trong việc hướng dẫn binh thuyền, tận tâm đo đạc hải trình nên được thưởng mỗi người 1 quan Phi Long ngân tiền, các dân phu hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định cùng đi mỗi người cũng được thưởng 1 quan tiền. Và đến năm Minh Mạng thứ 18 (18370 cũng chính Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh cùng Thuỷ sư suất đội Phạm Văn Biện, người chỉ huy chuyến đi Hoàng Sa lần này, do khởi hành chậm trễ nên đều bị phạt (nhưng binh lính thì vẫn được thưởng 2 quan tiền). Thật là quân lệnh nghiêm minh, thưởng phạt rõ ràng, và có lẽ việc thưởng phạt nghiêm minh ấy còn chứng tỏ rằng, thời ấy sứ mệnh đi Hoàng Sa lẫn Trường Sa là một nhiệm vụ cực kỳ “quan yếu”, như đã có ghi trong văn bản cổ của dòng họ Đặng làng An Hải.

Lần theo chính sử

Nội dung chính văn bản cổ của dòng họ Đặng làng An Hải năm 1834 cho biết: Theo lệnh của Bộ Binh, quan Bố chánh và Án sát tỉnh Quảng Ngãi làm bằng cấp theo tháng trước. Vâng sắc của triều đình Bộ đã chuẩn bị ba chiếc thuyền tu bổ kiên cố tại kinh, phái viên và thuỷ quân biện binh cùng hiệp đồng cho thuyền đến Quảng Ngãi để đi nhanh đến đảo Hoàng Sa. Tuân theo lệnh này, tỉnh (cũng) chuẩn bị (thêm) ba chiếc thuyền nhẹ (lê thuyền) để chờ phái viên, thuỷ quân ở kinh thành đến và đã phái Võ Văn Hùng, là người đã thuần thục đường biển, đi từ năm trước, tuyển thêm binh phu giỏi nghề đi biển, cốt sao mỗi thuyền có được 8 người, 3 thuyền là 24 người, lại chọn được ông Đặng Văm Siểm là người có kinh nghiệm làm đà công, để đến cứ hạ tuần tháng 3 hàng năm cùng với phái viên, biền binh ở kinh thành thẳng tiến đến đảo Hoàng Sa để đo đạc thuỷ trình (theo các bản dịch của các ông Dương Quỳnh – dịch tháng 3 năm 1999; Võ Hiển Đạt, Ngước Đức Tập, Lâm Dũ Xênh, Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Tấn An, Lê Hạng dịch vào tháng 4 – 2009).

Lần theo chính sử, ta thấy có một số sự kiện lịch sử liên quan đến nội dung của văn bản cổ này.

Sách Đại Nam thực lục , chính biên, đệ nhị kỷ, quyển 122 của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép về những sự kiện lịch sử vào tháng 3 năm Minh Mạng thứ 15 (1834), có ghi: “Đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng thuỷ quân hơn 20 người đi thuyền đến đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ” (Nxb Giáo dục, H. 2004, tập 4, tr.120)

Ở một số trang khác, sách này cũng cho biết, chính năm 1834 vua Minh Mạng đã sai binh lính đi dựng miếu và lập bia ở Hoàng Sa, nhưng vì sóng to gió lớn không làm được, nên vào tháng 6 năm Minh Mạng thứ 16 (1835), sai Cai đội Thuỷ quân Phạm Văn Nguyên đem thợ Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định chuyên chở vật liệu đến dựng miếu, dựng bia đá đảo Hoàng Sa (tr. 673). Sách này còn cho biết thêm, vào tháng Giêng năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu rằng: “Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu, đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được một nơi… Hàng năm nên phái người đi dò xét khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay (1834) trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng Giêng chọn phái biền binh thuỷ quân và vệ giám thành đáp một chuyến thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng Hai thì đến Quảng Ngãi, bắt hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại, xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ bến, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói cho rõ, đem về dâng trình” (tr. 867). Chuẩn theo lời tấu của Bộ Công, vua Minh Mạng sai Suất đội Thuỷ quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền cùng 10 bài gỗ, mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt khắc chữ: “Minh Mạng thập thất niên, Bính Thân, Thuỷ quân Chánh đội trưởng Suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa tương độ chí thử lưu đẳng tự” (Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân (1836), Thuỷ quân Chánh đội trưởng Suất đội Phạm Hữu Nhật vâng mệnh đi Hoàng Sa xem xét, đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ). Có lẽ, đây là sự kiện mà hầu hết các bộ chính sử của triều Nguyễn, như Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu, Khâm định Đại Nam hội điển sư lệ … đều có ghi chép.

Ngoài những trang ghi chép về sự kiện đi Hoàng Sa vào các năm 1834, 1835, 1836, sách Đại Nam thực lục , đệ nhị kỷ, quyển 204, còn ghi chép thêm rằng, phái viên Hoàng Sa là Suất đội Thuỷ sư Phạm Văn Biện cùng thuỷ quân, binh phu đi Hoàng Sa bị gió bão đánh tan nát nên đến tháng 7 năm Minh Mạng thứ 20 (1839) mới “lục tục” về đến kinh thành. Hỏi vì sao, đoàn thuyền đi Hoàng Sa lần này cho biết, họ đã nhờ thuỷ thần cứu giúp. Vua Minh Mạng sai Bộ Lễ chọn địa điểm ở cửa biển Thuận An đặt đàn cúng tế tam sinh nhằm cảm tạ thuỷ thần, rồi thưởng tiền cho Phạm Văn Biện, các biền binh và dân phu đi theo (tập 5, tr. 532).

Chỉ căn cứ theo các đoạn ghi chép nêu trên cũng đã thấy nội dung văn bản cổ của dòng họ Đặng là hoàn toàn trùng khớp với chính sử.

Tìm về châu bản

Nội dung văn bản cổ của dòng họ Đặng còn trùng khớp với nhiều nguồn tài liệu, thư tịch bằng chữ Hán của các sử gia, quan lại ở những triều vua khác nhau, đặc biệt là những tài liệu, thư tịch có ghi chép khá kỹ lưỡng về hoạt động của đội Hoàng Sa – Trường Sa cũng như việc thực thi chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo này.

Trước hết đó là những ghi chép của Nội các triều Nguyễn trong Khâm định Đại Nam hội điển sư lệ , những ghi chép của Pham Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chíHoàng Việt địa dư chí , những ghi chép của Nguyễn Thông trong Việt sử cương giám khảo lược … Sở dĩ ta xem văn bản cổ của dòng họ Đặng có sự trùng khớp về nội dung so với các tài liệu này, bởi nhiều trang ghi chép trong Khâm định Đại Nam hội điển sư lệ , hay các sách của Phan Huy Chú, Nguyễn Thông không khác mấy với các bộ chính sử triều Nguyễn như Đại  Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu, Đại Nam nhất thống chí mà chúng tôi đã có dịp đề cập. Xin được không trích dẫn lại. Riêng về hoạt động của đội Hoàng Sa, ngay từ thời đầu chúa Nguyễn, thì cũng thẳng thắn nhìn nhận rằng, hầu hết những trang ghi chép cảu các sử gia Việt Nam viết về hoạt động của đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải (bao gồm cả Trường Sa) ít nhiều cũng đã kế thừa, thậm chí có những chỗ gần như nguyên văn một số sự kiện mà nhà bác học Lê Quý Đôn mô tả trong bộ sách Phủ biên tạp lục nổi tiếng, vốn được biên soạn vào năm 1776, tức lúc Lê Quý Đôn theo lệnh của vua Lê – chúa Trịnh vào làm Hiệp trấn Thuận Hoá.

Cùng với những trang ghi chép của các sử gia phong kiến Việt Nam, các quan ở Nội các triều Nguyễn, đó là các tờ phúc tấu, tấu trình lên cho vua của các đình thần như Bộ Công, Bộ Hộ, các quan đầu tỉnh…, và được vua phê chuẩn bằng mực đỏ, gọi chung là châu bản (châu = mực đỏ). Nội dung văn bản cổ dòng họ Đặng trùng khớp với những trang ghi chép trong châu bản triều Nguyễn, đặc biệt là châu bản dưới thời vua Minh Mạng.

Châu bản tập Minh Mạng số 54 cho biết, ngày 18 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà vua đã ra chỉ dụ thưởng phạt cho những người đi Hoàng Sa vào năm này (trong đó có ghi phạt Phạm Văn Nguyên và những viên giám thành 80 trượng vì tội trì hoãn thời gian đi Hoàng Sa, thưởng Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh vì có công hướng dẫn hải trình như đã nêu ở trước).

Phúc tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Bính Thân (1836) cho Phạm Hữu Nhật đi cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền. Tờ tấu của Bộ Hộ ngày 11 tháng 7 cũng năm Bính Thân (1836) cho xin thanh toán lương thực cho dân phu đi Hoàng Sa. Tờ dụ ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 18 (1837) trong Châu bản Minh Mạng tập 57 cho biết việc sai các giám thành, biền binh hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định đi đo vẽ bản đồ, cắm mốc chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa.

Trong năm Minh Mạng thứ 19 (1838) có 3 tờ tấu trình. Thứ nhất, đó là Tờ tấu của Bộ Công ngày 2 tháng 4 (nhuận) cho biết việc hoãn thi hành công vụ đi đo giáp vòng quần đảo Hoàng Sa trong tháng 3 vì mưa gió kéo dài. Thứ hai, cũng là tờ tấu trình của Bộ Công ngày 21 tháng 6 năm (1838) cho biết: hướng dẫn viên đi Hoàng Sa là Võ Văn Hùng (người được ghi trong văn bản cổ của dòng họ Đặng là lo việc tuyển chọn binh phu và đã tuyển chọn đà công Đặng Văn Siểm) đã cung cấp thông tin là quần đảo Hoàng Sa có tất cả bốn nơi cần khảo sát; lần đi năm này (1838) chỉ đi được ba nơi, còn một nơi không đi được vì gió đang mạnh nên xin để cho năm sau đi tiếp. Hướng dẫn viên Võ Văn Hùng cũng cho biết thêm, quần đảo Hoàng Sa có tất cả 25 hòn, nhưng trong năm chỉ đi đến được 12 hòn, khảo sát và vẽ đựơc 3 bản đồ riêng, 1 bản đồ chung, còn lại 13 hòn chưa đến được. Đây là tờ tấu trình hết sức đặc biệt, không chỉ liên quan đến ông Võ Văn Hùng có ghi trong văn bản cổ của dòng họ Đặng mà còn ghi chép khá cụ thể về số lượng các hòn đảo trong bốn nơi thuộc quần đảo Hoàng Sa, số lượng các hòn đảo đã được đo vẽ trong năm này. Tờ tấu trình thứ ba năm 1839 là tờ tấu trình của tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 19 tháng 7, tức sau đó chưa đầy 1 tháng, quan tỉnh Quảng Ngãi tấu trình về việc miễn thuế cho hai chiếc “bổn chinh thuyền” đã đưa binh lính đo giáp vòng quần đảo Hoàng Sa từ tháng 3 đến hạ tuần tháng 6.

Nhìn từ Lý Sơn và đi dọc biển Quảng Ngãi

Trong hàng chục năm qua, chúng tôi đã tìm về làng An Vĩnh, An Hải tại vùng biển cửa biển Sa Kỳ, làng An Vĩnh, An Hải trên đất đảo Lý Sơn và nhiều nơi khác dọc ven biển Quảng Ngãi. Những gì chúng tôi tìm thấy đựơc trong các nhà thờ tộc họ, chứng kiến những ngôi mộ chiêu hồn, tham dự nhiều lễ tục độc đáo như Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa, Lễ cúng việc lề, nghe kể những truyền thuyết, giai thoại, cùng ngồi thâu đêm để được nghe hát những bài dân ca còn lưu truyền… đã giúp cho chúng tôi hiểu hơn về lịch sử hình thành, về sản vật, hải vật có trên đảo Lý Sơn và những nơi khác trải qua nhiều thế kỷ, về phong tục tập quán, về di sản văn hoá dân gian mà không dễ gì trong một thời gian dăm ba năm có thể thu nhặt hết, đặc biệt là về những người đi lính Hoàng Sa, Trưởng Sa thuở trước.

Về nguồn tài liệu, trước hết phải nói đến nguồn tài liệu Hán Nôm. Trong số hàng nghìn trang tài liệu Hán Nôm mà chúng tôi sưu tầm được, hoặc do các dòng họ cung cấp, tiêu biểu là ở các tộc họ Võ (Văn), Phạm (Quang), Phạm (Văn), Nguyễn, Trần…, thì trong số đó có nhiều tài liệu có niên đại cách đây hơn 200 đến 250 năm, như các tài liệu thời Cảnh Hưng (1740 – 1786), Thái Đức (1778 – 1793), Cảnh Thịnh (1793 – 1801), tức thời vua Lê, chúa Nguyễn, thời Tây Sơn, đến các tài liệu cách đây 150 năm đến 200 năm, như tài liệu thời nhà Nguyễn: Gia Long (1802 – 1819), Minh Mạng (1920 – 1840), Thiệu Trị (1741 – 1847), Tự Đức (1848 – 1883)… Tất nhiên trong số hàng nghìn trang ấy, không phải tất cả đều là ghi chép về hoạt động của đội Hoàng Sa, nhưng theo chúng tôi, dường như hầu hết đều có giá trị. Bởi nhờ các tài liệu này mà chúng tôi hiểu biết hơn về lịch sử, nguồn gốc cư dân, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, các địa danh thời trước, những lễ nghi…; xác định được bản quán của những người đi Hoàng Sa.

Và cũng từ những điều đó cho phép ta khẳng định thêm một lần nữa, nội dung văn bản cổ của dòng họ Đặng trùng khớp với những tài liệu cổ khác hiện còn trên đất đảo Lý Sơn mà các dòng họ còn lưu giữ, dù có tài liệu không còn nguyên vẹn. Nhưng đó cũng chỉ là việc xác lập thông tin qua nguồn tư liệu Hán Nôm, còn những ngôi mộ chiêu hồn, những di tích liên quan đến đội Hoàng Sa, những câu chuyện kể, những câu ca dân gian được lưu truyền… mà ở đây chưa có dịp đề cập cũng là những bằng chứng khác hết sức sống động về quá trình hoạt động của đội Hoàng Sa, về sự hy sinh đầy cao cả của những hùng binh Hoàng Sa trong nhiều thế kỷ.

Cuối cùng, tất cả những điều chúng tôi đã trình bày ở trên, trước hết cũng chỉ là thêm một lần để khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và ít nhiều cũng chỉ là gợi ý cho những ai quan tâm đến sự kiện này thêm một lần hướng về chủ quyền của quốc gia trên vùng biển đảo quê hương. Chúng tôi mong muốn rằng:

- Cần có một dự án điều tra toàn bộ các di tích liên quan đến đội Hoàng Sa – Trường Sa không chỉ trên đất Quảng Ngãi mà còn ở nhiều nơi khác nữa dọc miền Trung. Có kế hoạch bảo tồn và phát huy giá trị các loại hình văn hóa phi vật thể trên đảo Lý Sơn, cũng như dọc biển đảo miền Trung, đặc biệt là Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa.

- Cần có một sự hỗ trợ cần thiết để đánh giá trữ lượng di sản Hán Nôm còn trên đất Quảng Ngãi (lẫn miền Trung) mà chắc chắn trong số đó sẽ còn có những tài liệu liên quan đến chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo này.

- Cần tiếp tục trùng tu các di tích liên quan đến hội Hoàng Sa, Thuỷ quân Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa, như nhà thờ của các dòng họ cai đội, chánh đội, trưởng đội Hoàng Sa, như: nhà thời họ Võ Văn (thờ Võ Văn Khiết, Võ Văn Phú, Võ Văn Hùng); nhà thờ họ Phạm Quang (thờ Phạm Quang Ảnh); nhà thờ họ Phạm Văn (thờ Phạm Hữu Nhật, Phạm Văn Nguyên, Phạm Văn Biện…); nhà thờ họ Đặng (thờ Đặng Siểm)…, gắn với giáo dục truyền thống và phát triển du lịch.

- Cần có một chủ trương tổ chức Festival Biển đảo Việt Nam (hoặc là Tuần Văn hoá Biển đảo Việt Nam) tại Quảng Ngãi bắt đầu từ năm 2012 (nhân dịp kỷ niệm 180 năm Quảng Ngãi cũng như các tỉnh Nam Trung bộ chính thức trở thành đơn vị hành chính cấp tỉnh – tính từ năm Minh Mạng thứ 13, 1832), và lấy Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa làm hạt nhân cho lễ hội này.

- Và một đề nghị (mà tỉnh Quảng Ngãi đã đề nghị lên Trung ương từ năm 2010) là, để có điều kiện bảo tồn di sản văn hoá biển đảo, trong đó có những tài liệu Hán Nôm, như tài liệu của dòng họ Đặng và các dòng họ khác, các văn tế Khao lề thế lính… cần thiết phải có một Bảo tàng Văn hoá Biển Việt Nam. Mà có lẽ, hơn ở đâu hết, Quảng Ngãi chính là nơi được đặt bảo tàng này, vì Quảng Ngãi là nơi có truyền thống biển từ lâu đời, có đội Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa được thành lập từ nhiều thế kỷ trước, và trong lịch sử, Hoàng Sa lẫn Trường Sa đều là các quần đảo thuộc phủ Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.


Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.