Đôi điều bàn về công tác bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài trong thời kỳ mới
Vấn đề Bác đề ra là một lĩnh vực rất rộng. Ở góc nhìn khoa học về công tác giáo dục - đào tạo, chỉ xin đề cập đến một khía cạnh là việc phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài hiện nay, với ý tưởng vừa là thừa kế văn hiến dân tộc, vừa là làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Thuật ngữ Việt Nam gọi những người có phong cách đạo đức và tài năng xuất sắc là nhân tài. Nhân tài được đánh giá là tài sản tinh hoa nhất của quốc gia - dân tộc và nhân loại, ngày nay người ta còn coi nhân tài là một loại tài nguyên quý báu vô giá của bất cứ nền kinh tế - xã hội nào.
Dân tộc ta từ xa xưa vốn đã có truyền thống sáng suốt trọng dụng nhân tài. Giở lại lịch sử vào năm Thuận Thiên thứ hai, ngày 27 tháng 9 năm Kỷ Dậu (1429), tức là chỉ sau một năm chiến thắng giặc Minh và lên ngôi vua, Thái Tổ Lê Lợi đã cử danh thần Nguyễn Trãi viết bài chiếu: “Trẫm nghĩ muốn quốc thịnh, dân an thì phải có hiền tài, cho nên người đứng đầu thiên hạ phải lo việc ấy trước tiên. Nay trẫm gánh vác trách nhiệm nặng nề, sớm khuya thành kính lo sợ như đứng bên bờ vực vì chưa tìm kiếm được nhiều nhân tài ra giúp nước. Vậy Trẫm lệnh cho các công hầu đại phu, đại thần từ tam phẩm trở lên, mỗi viên phải tim tiến cử lấy một người, bất luận thân thế hay địa vị, cốt là có tài năng văn, võ để trẫm xét tùy tài mà bổ dụng” (1). Các triều đại kế tiếp đều theo chiếu đó mà thực hiện, cho đến niên hiệu Đại Bảo Trần Duệ Tông (1442) thì cô kết thành di huấn tâm huyết khắc vào văn bia, lưu tồn trong Quốc Tử Giám để truyền cho con cháu mãi mãi. “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì quốc gia hưng thịnh, nguyên khí yếu thì quốc gia suy vong. Xem ra quan hệ giữa nhân tài với sự sinh tồn của nước nhà hệ trọng đến nhường ấy, nên các bậc hiền vương, minh đế không ai không chiêu hiền, đãi sĩ, coi việc trọng dụng và đãi ngộ nhân tài không biết thế nào là cùng”. Đến thời Quang Trung, có chuyện Nguyễn Huệ đích thân ra Bắc công phu thu phục La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp cung sĩ phu Bắc Hà, tạo nên thế bình ổn quốc nội để tập trung tài lực đại phá quân Thanh vào mùa xuân Kỷ Dậu 1789.
Cũng với tinh thần ấy, gần 200 năm sau, là người thấm nhuần văn hóa cổ kim, cùng với bản lĩnh cao cả một vị lãnh tụ nhân ái, khoan hòa của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt trọng dụng những người có tài, đức tham gia vào chính quyền mới ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Trong bài “Tìm người tài đức” đăng trên báo Cứu quốc. Người viết: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài, có đức. Chỉ e vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp nên các bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa điều đó, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân thì báo cáo ngay cho Chính phủ biết. Hạn trong một tháng các địa phương phải báo cáo cho đủ” (2). Người còn đề ra sách lược nổi tiếng “Đại đoàn kết dân tộc”, đích thân Người trân trọng, chu đáo với từng nhân sĩ, cảm thông và nhẫn nại thức tỉnh trí thức ở trong nước hay nước ngoài và tập hợp được họ hội tụ về cùng chung lo việc nước với Người. Những vị chính khách khả kính như Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Văn Huyên, Trần Văn Giàu, Phạm Khắc Hòe… và những học giả danh tiếng như Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Lương Định Của, Tôn Thất Tùng, Nguyễn Đình Tứ, Nguyễn Văn Hiệu… cùng xuất hiện đương thời và lưu danh đến ngày nay. Đó là tiên tài của Hồ Chí Minh thể hiện ở chính thời khắc lịch sử trọng đại, nguy nan nhất của Nhà nước Cộng hòa non trẻ, là tác phẩm quan trọng để chính quyền cách mạng đứng vững được ngay từ khi ra đời, rồi vượt qua được mọi khó khăn để đi tới những thắng lợi vĩ đại.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta nhận thấy bài học về tư tưởng và phương pháp trọng dụng nhân tài của Bác càng có ý nghĩa to lớn trong thời đại đất nước đang đổi mới. Nếu làm tốt theo gương Bác để mỗi ngành, mỗi bộ phận đều có người tài giỏi, người “đầu đàn” thì kết quả tiến lên công nghiệp hóa - hiện đại hóa chắc chắn sẽ sớm thành công như mong muốn.
![]() |
Nhìn rộng ra khu vực thì việc thu hút, trọng dụng, ưu đãi nhân tài đã trở thành một xu thế phổ biến ở nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển mạnh như Trung Quốc, Singapore… đã thực hiện từ lâu. Tại Hàn Quốc, ngày 04 - 05 - 2008 ngay sau khi đắc cử tân Tổng thống Lý Minh Bắc (Lee Myung - Bak) đã phê chuẩn chi 175 triệu USD để thu hút Hàn kiều về tham gia kiến quốc (3), coi đây là giải pháp “nhập khẩu chất xám”, là nguồn nguyên liệu đặc biệt cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa, là “đầu vào” của nền kinh tế trí thức.
Trong khi bàn về công tác bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài ở ta hiện nay thường gặp một số thông tin không vui, đáng được nghiên cứu, trao đổi như:
- Học sinh, sinh viên nước ta hàng năm đi dự thi quốc tế về toán học, vật lý… đoạt giải rất cao, được thế giới thán phục, nhưng đi thi về thì các em “chìm” đi đâu cả? để mấy chục năm nay không thấy xuất hiện dù chỉ 1 tên tuổi khoa học nổi trội nào, như ở các thập kỷ 1960, 70 trước kia;
- Việc thu hút những nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài về nước chưa trở thành một cao trào, có tác dụng lớn;
- Hiện tượng cán bộ khoa học, chuyên gia, giảng viên đại học có uy tín bỏ cơ quan, đơn vị Nhà nước để ra làm ngoài theo hợp đồng cho các doanh nghiệp liên doanh ngày càng nhiều, đã xảy ra ở cả ngành Giao thông vận tải.
Lý giải các hiện tượng trên có thể dẫn ra hai nguyên nhân chính: 1 là quan hệ đối xử và 2 là đãi ngộ vật chất đối với họ.
Theo chúng tôi cả 2 mặt đều quan trọng, nhưng cần trước hết vẫn là thái độ quý trọng và tin tưởng ở họ. Như cố giáo sư Vũ Tuyên Hoàng, Chủ tịch Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đã tổng kết: “Đối với những trí thức chân chính, mong muốn cao nhất của họ là có điều kiện cống hiến, chứ không phải là đòi hỏi điều kiện đãi ngộ. Cái cần nhất đối với họ là có một môi trường cởi mở và tin cậy”.
Về điện kiện thu nhập, cải cách chế độ tiền lương đối với trí thức để đảm bảo đời sống bình ổn trong nền kinh tế thị trường biến động thì Đảng, Nhà nước đã thấy và đã có Nghị quyết - “Hoàn chỉnh xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài; phát huy sự đóng góp của trí thức, kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước”. (Trích Nghị quyết số 36/NQ-TW của Bộ Chính trị).
Trong khi chờ sự giải quyết ở cấp vĩ mô, chúng ta có thể vận dụng một số cơ chế mở hợp lý để khuyến khích, bồi dưỡng nhân tài, chẳng hạn như:
- Cho phép doanh nghiệp, đơn vị cơ sở thực hiện chế độ tử chủ, tự chịu trách nhiệm về tiền lương - tiền công, ban đầu trích quỹ tự có để hỗ trợ vào lương cho nhân tài đạt mức thu nhập thỏa đáng, sau một thời gian sẽ cắt khoản hỗ trợ này nhưng họ vẫn có thể thu nhập cao nhờ vào khả năng nghiên cứu, chuyển giao kỹ thuật của mình;
- Trích quỹ xí nghiệp, đơn vị để chi khuyến khích người được cử đi bồi dưỡng, tập huấn nâng cao, đào tạo sau đại học, khoản này được tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và không phải chịu thuế; Xin trích Quỹ Bộ trưởng; Quỹ hỗ trợ phát triển tài năng trẻ của Công đoàn ngành để đào tạo nhân tài, ưu tiên dành cho nghiên cứu sinh năm cuối; Theo dõi, xét thưởng kết quả học tập và nghiên cứu khoa học; ưu tiên ưu đãi sắp xếp, sử dụng người bảo vệ thành công luận án, đề án xuất sắc”.
(1) Theo Đại Việt sử ký toàn thư
(2) Theo báo Cứu quốc, số ra ngày 20 - 11 - 1946.
(3) Theo Bản tin Đài TNVN ngày 12 - 5 - 2008.









