Dốc đèo với trí thức
Đến lúc phải tìm ra một cơ chế để đưa dòng trí tuệ của toàn dân thành sức mạnh của triều dâng.
Cuộc trò chuyện với TS Trương Đình Hiển đi từ những tiếc nuối đối với cảng Hiệp Phước sắp khánh thành đến những tâm sự "góc khuất" về con đường của trí thức luôn mong mỏi đưa tri thức vào cuộc sống.
Cảng Hiệp Phước - còn đó những câu hỏi
Là một nhà khoa học có nhiều công trình góp phần phát triển các cảng biển nước sâu miền Trung và đất nước, ông có cảm nghĩ gì về ngày khánh thành khu đô thị cảng biển Hiệp phước sắp đến?
Tiến sĩ Trương Đình Hiển:Ngày khánh thành đô thị Hiệp Phước đối với tôi đó là một ngày vui, đất nước thêm một bước phát triển và thành phố thêm một khu đô thị mới tiến ra biển Đông.
Song để cho niềm vui lớn được trường tồn và phát triển, chúng ta cũng không quên những khó khăn thách thức mà chúng ta cần tìm con đường khắc phục đó là: khu đô thị cảng biển Hiệp Phước được xây dựng trên một vùng đất có độ cao rất thấp và kết cấu đất yếu hơn nhiều so với các vùng quy hoạch khác như Cát Lái, Thị Vải, Gò Gia. Đây là một khó khăn trường tồn mà chúng ta sẽ phải tốn kém lớn trong quá trình xây dựng.
Cứ nhìn tình hình ngập nước hiện tại của TPHCM thì chúng ta sẽ thấy cái giá phải trả cho vấn đề này đối với Hiệp Phước, đặc biệt trong tình hình mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu.
Chúng tôi được biết ông và nhiều nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu các quy luật về điều kiện tự nhiên và bồi lấp ở vùng cảng Hiệp Phước này và đã đưa ra các cảnh báo được trình bày trong phản biện Quy hoạch nhóm cảng số 5 do Liên hiệp Các Hội khoa học TPHCM thực hiện. Và các câu trả lời cho việc đóng góp này?
Hiệp Phước, với chiến lược cây dựng cảng biển, có khả năng đón các tàu có trọng tải lớn từ 50,000 tấn trở lên, nhưng hiện tải việc giải quyết luồng tàu để đáp ứng các yêu cầu này là chưa tìm ra câu trả lời khả thi.
Tất cả đang còn trên con đường tìm tòi và thử nghiệm nạo vét một luồng tàu có trọng tải lớn hơn 50,000 tấn qua cửa Soài Rạp. Vì rằng luồng vào cảng Hiệp Phước theo sông Lòng Tàu qua mũi Nhà Bè chỉ có thể cho tàu trọng tải 20,000 - 30,000 tấn chạy một chiều mà thôi.
Việc nạo vét một luồng tàu có độ sâu lớn qua một bãi cạn hàng trăm km2 ở cửa Soài Rạp là điều rất khó khả thi, bởi sự hình thành bãi cạn khổng lồ trước cửa Rạp là do các quy luật về điều kiện tự nhiên tạo nên, khi ta can thiệp bằng nạo vét nó có sẽ lập tức bồi lấp lại để thiết lập lại trạng thái cân bằng đã có (như các hiện tượng đã xảy ra ở cửa Dịnh An và các cửa biển trên khắp thế giới).
Đường bộ vào cảng Hiệp Phước đang bị ách tắc và tạo nhiều khó kăn cho hoạt động của cant. Về mặt liên kết vùng thì đây là khu vực nằm tương đối tách biệt với các khu công nghiệp lớn như Phú Mỹ, Nhơn Trạch, Đồng Nai, Biên Hòa. Rõ ràng, những khó khăn trên đây là lâu dài, cần có một lối thoát nhằm khắc phục để có một thành phố cảng biển to đẹp hơn.
Gò Gia, có thể là cảng biển cấp khu vực
Tiến ra biển Đông, một bước đột phá trong hoạch định chiến lược phát triển của TPHCM, ở góc nhìn của nhà nghiên cứu khoa học, ông sẽ góp ý như thế nào?
Trong khi phản biện nhóm cảng số 5 do Liên hiệp Các Hội khoa học kỹ thuật TPHCM tiến hành, các nhà khoa học đã nêu lên một hướng đi đầy triển vọng của thành phố trên còn đường phát triển, đó là khu vực Gò Gia nằm ở phần Đông Bắc huyện Cần Giờ - một khu kinh tế biển có tầm cỡ quốc gia và khu vực Đông Nam Á.
Hai mươi năm về trước (1990), chúng tôi đã có các nghiên cứu về sự hình thành cảng gò Gia và khu kinh tế ở đây. Cũng trong thời gian này, một số lãnh đạo TPHCM, như Phó chủ tịch UBND TP Nguyễn Văn Huấn, Phó Giám đốc Sở Xây dựng Vũ Hùng Việt, Viện trưởng Viện Kinh tế TPHCM TS Đặng Hữu Ngọc, đã cùng chúng tôi tiến hành khảo sát khu vực Gò Gia - Giồng Chùa. Các năm tiếp theo đã có các nghiên cứu đầy đủ về các điều kiện tự nhiên và môi trường để hình thành một đặc khu kinh tế biển tầm cỡ quốc gia và khu vực.
Điều gì mà ông nói thực tế chỉ là kết quả khảo sát hay là những công trình nghiên cứu nghiêm túc?
Những gì chúng tôi nêu ra đây là kết quả của một tổ hợp các công trình nghiên cứu nghiêm túc được tiến hành bởi một tập thể các nhà khoa học có nhiều kinh nghiệm. Các kết quả nghiên cứu qua nhiều đợt đã được trình bày và báo cáo lên lãnh đạo TPHCM qua nhiều năm.
Thưa ông, khó khăn lớn nhất để đưa các kết quả nghiên cứu khoa học liên quan đến hoạch định kinh tế, hay bộ mặt đô thị của mỗi một khu vực đến tay người có thẩm quyền quyết định và thuyết phục các nhà lãnh đạo là gì?
Như chúng ta biết, thường các nhà khoa học là những người không có quyền và tiền để quyết định triển khai thành quả của mình. Vì vậy, không có gì hơn là nhà khoa học, ngoài tính khoa học của để tài phải thuyết minh cho được ý nghĩa thực tiễn của công trình nghiên cứu là gì, khả năng ứng dụng và hiệu quả.
![]() |
Nhiều lúc chúng ta phải vượt qua rào cản đã hình thành trong đầu óc con người hàng trăm năm, như công trình cảng biển nước sâu và khu kinh tế Dung Quất, Chân Mây, Nhơn Hội vì một số nhà lãnh đạo cũng như người dân luôn nghĩ miền Trung bão lũ đói nghèo như một định mệnh. Nhưng số phận của vùng đất này đã rơi đúng vào thời kỳ xã hội Việt Nam mở cửa, điều kiện địa lí tự nhiên chiến lược có giá trị cao hơn tài nguyên khoáng sản.
Và công trình đã vượt qua được rào cản, đến được người lãnh đạo có tâm và có tầm là thủ tướng Võ Văn Kiệt. Nhờ đó mà miền trung đã có tiền đề đi lên bằng con đường đại công nghiệp để đuổi kịp sự phát triển hai đầu của đất nước.
Là một nhà khoa học trong lĩnh vực vật lí hải dương, công trình biển và thềm lục địa, điều gì khiến ông gắn bó và đặt hết quyết tâm vào các công trình phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế biển ở miền Trung và TPHCM?
Nếu nói số phận là kết quả tác động của giới tự nhiên và xã hội lên một con người, thì nhà khoa học cũng có số phận và không ngoại lệ. Sự phát triển kinh tế biển như vũ bão của thế giới, tình hình đổi mới của xã hội Việt Nam, cùng vị trí chiến lược và điều kiện tự nhiên của miền Trung và TPHCM là một kỳ duyên tiền định đối với số phận của tôi và tôi dấn thân theo nó cho đến ngày nay.
Khi quyết định dấn thân có lúc nào ông cảm thấy chùn bước?
Cuộc đời là một số phức mà trong đó cuộc sống chỉ là phần thực của nó mà thôi. Vì vậy, khi cuộc sống chấm dứt cuộc đời vấn tiếp tục. Cuộc sống của các vị anh hùng Trần Hứng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã kết thúc bao nhiêu thế kỷ, nhưng cuộc đời của các vị anh hùng đó vấn sống với con cháu và lịch sử nước nhà.
Có hiểu giá trị của cuộc đời thì mới dám dấn thân. Các nhà khoa học cũng vậy, khi cuộc sống chấm dứt thì cuộc đời của học vấn còn tiếp tục trong các công trình nghiên cứu, các thành quả khoa học để lại cho hậu thế. Họ sống trong các thư viện và ngày ngày cùng con cháu thảo luận, tra cứu và tiếp tục sự nghiệp của mình.
Ở đây, chúng ta thấy không chỉ con người mới có số phận, mà một vùng non nước nào đó cũng có số phận vì nó tồn tại và phát triển, hay bị lãng quên theo số phận của con người. Điều đó cũng có thể thấy qua thực tiễn như: Dung Quất, Chân Mây, Nhơn Hôi, Hiệp Phước, Thị Vải, Gò Gia và nhiều nữa.
Cơ duyên nào đưa chân ông đến với Dung Quất, Chân Mây?
Năm 1954 tôi từng mặc quần xà lỏn, chân đất theo mẹ đứng cả ngày trời nhìn đoàn quân từ Tây Nguyên và Lào trở về để tìm bóng dáng anh tôi, nhờ đó tôi đã theo cha đến chỗ đóng quân ở Vạn Tường - Dung Quất. Thời thơ ấu tôi đã từng nghe cha mẹ kể vể Thừa Lưu - Chân Mây.
55 năm trước tôi đã bước lên tàu ra Bắc trong tuổi thơ ngơ ngác ở Quy Nhơn - Nhơn Hội. Tôi đâu có biết số phận đã định cho mình ngày trở về để gắn bó với sự nghiệp Dung Quất, Chân Mây, Nhơn Hội và vùng trọng điểm kinh tế miền trung.
Cuối cùng, thưa ông, điều gì ông thấy tiếc trong đời làm khoa học của mình?
Năm 1970, lúc tròn 29 tuổi, tôi bảo vệ luận án và tự Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô trở về đất nước, đến năm 1990, chúng tôi mới tìm ra được con đường để phcụ vụ được thực tiễn phát triển của nước nhà. 20 năm của tuổi thanh xuân trôi qua, tôi từng đi qua dưới chục cơ quan để học hỏi tìm ra con đường phục vụ thực tiễn.
Sự mất mát tuổi thanh xuân là chua xót, song thực tiễn Việt Nam và con đường tiếp cận với nó là con đường nhiều dốc đèo đối với nhà khoa học và đòi hỏi phải dấn thân. Nếu không chị dấn thân thì sẽ phải rời đội hình, rẽ qua con đường khác để có một cuộc sống an bình. Ngày nay mặt bằng trí tuệ của dân chúng lên rất cao, đặc biệt là tầng lớp trẻ. Song có thể nói ta chưa khai thác và sử dụng hết để đưa nước nhà đuổi kịp và vượt qua các nước lấng giềng.
Tôi thiết nghĩ, đã đến lúc phải tìm ra một cơ chế để đưa dòng trí tuệ của toàn dân thành sức mạnh của triều dâng đưa đất nước đến thái bình, thịnh trị.









