Dinh Thống Nhất
Dinh Thống Nhất toạ lạc tại vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi.
Năm 1698, chúa Nguyễn Phước Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lý và lập dinh Trấn Biên ở Biên Hoà, dinh Phiên Trấn ở Sài Gòn. Trước đó đã có trên 4 vạn lưu dân sinh sống và khai hoang đất đai được trên ngàm dặm. Dân ở Trấn Biên hợp thành huyện Phước Long, dân ở Phiên Trấn hợp thành huyện Tân Bình. Hai huyện hợp thành phủ Gia Định với lỵ sở đóng tại Sài Gòn.
Năm 1790, xây thành Bát Quái rộng lớn theo kiểu bố phòng quân sự Vauban, tại xã Tân Khai phủ Tân Bình (trước là huyện). Năm 1836, sau vụ Lê Văn Khôi khởi loạn, Minh Mạng cho phá thành Bát Quái (cũng gọi là thành Quy và xây thành Phụng nhỏ hơn nằm trên góc Đông - Bắc thành Quy.
Đầu năm 1859, liên quân Pháp và Tây Ban Nha đánh chiếm Sài Gòn, rồi cho phá bình địa thành Phụng. Sơ đồ Larclause vẽ ngày 1/3/1859 cho thấy còn dấu vết hào và kinh của thành Quy và hình thể thành Phụng cùng với sông Sài Gòn, rạch Thị Nghè, rạch Bến Nghé. Đường cổ nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa, kinh Bến Thành nay là đại lộ Nguyễn Huệ.
Ngày 5/6/1862, Phan Thanh Giản phải ký Hoà ước Nhâm Tuất nhượng địa cho Pháp 3 tỉnh Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, tại Trường Thi (4, Phạm Ngọc Thạch, Q1, Nhà văn hoá Thanh niên nay).
Năm 1862, Đại tá Coffyn vẽ sơ đồ quy hoạch thành phố Sài Gòn rộng 2.500ha có thể dung nạp 500.000 dân, theo kiểu các đô thị Tây phương với hệ thống đường ngang dọc thoáng đãng, có giếng nước phun, có vườn cây xanh bóng mát, có cống thoát nước hợp lý. Sơ đồ quy hoạch chia ra khu vực hành chinh, khu vực công thương nghiệp và khu vực cư trú rõ ràng. Song quy hoạch này được coi là không tưởng, quá đồ sộ, không được thi hành, vì khi ấy cả Nam bộ chỉ có trên 1 triệu dân.
Sơ đồ cảng Sài Gòn do hai kỹ sư Vidalin và Heraud đo vẽ năm 1863 cho thấy vị trí dành để xây Dinh Thống Đốc giữa những con đường nằm trong quy hoạch mơ hồ - sau này không thực hiện. Vị trí ấy toạ lạc tại phía Tây dấu vết thành Bát Quái. Thành phố bến cảng Sài Gòn khi ấy - cả khu hành chính trên đồi cao, lẫn khu thương mại gần bờ sông - mới rộng khoảng 200ha. Vị trí sẽ xây dựng Dinh Thống Đốc còn nằm ở ngoại ô xa vắng!.
Ngược dòng lịch sử ta có thể ghi nơi toạ lạc của Dinh Thống Đốc trên các sơ đồ xưa. Ta sẽ thấy vị trí dinh ở ngay trên đồi cao, sát cạnh thành Bát Quái tức Gia Định kinh - địa chỉ tiêu biểu quyền lực Việt Nam ở phương Nam của Tổ quốc, ở miền Nam Đông Dương và ở toàn vùng Đông Nam Ắ. Đó là vị trí địa lý chính trị truyền thống, từ trên 300 năm nay, không hề thay đổi và ngày càng phát huy tính cách vị trí tiêu biểu.
Từ Dinh Thống Đốc Nam kỳ đến Dinh Toàn Quyền Đông Dương
Khi tới đánh chiếm Sài Gòn, Đô đốc chỉ huy chưa có dinh cơ trên đất liền mà chỉ có soái hạm đậu trên lòng sông Sài Gòn trước mặt Quân cảng (từ đầu đường Hai Bà Trưng tới hãng Ba Son). Đầu năm 1861, sau khi hạ được đại đồn Chí Hoà, đô đốc Charner mới lập sở chỉ huy trên đất liền. Đó là nhà hai gian ba chái lợp lá ở Đồn Đất gần bệnh viện Nhi Đồng 2 bây giờ (1).
![]() |
Dinh Norodom năm 1925 (tức phủ toàn quyền, năm 1962 bị đánh bom sập, xây lại năm 1966 với tên lại là Dinh Độc Lập) nay là Dinh Thống Nhất. |
Năm 1865, Đô đốc - Thống đốc (Amiral - Gouvernuer) Lagrandière mở cuộc thi vẽ kiểu Dinh Thống Đốc, treo giải nhất 4.000 quan (france), kết quả thất bại, không có phác thảo nào được chọn. Kiến trúc sư Hermitte là người xây dựng nhiều công trình lớn được giới thiệu từ Hong Kongsang Sài Gòn để thiết kế dinh thự đầu não hùng vĩ cho thuộc địa Pháp. Ông muốn Dinh Thống Đốc rất huy hoàng tráng lệ, xứng đáng là “một công thự mà những đô thị kiêu hãnh nhất thế giới đều muốn sở hữu (Un monument dont s’honoreratient avec raison les plus fières villes du monde.J.Boissière)” (3).
Ngày 23/2/1863, Lagrandière đặt viên đá góc đầu tiên khai trương công trình kiến tạo Dinh Thống Đốc. Dinh này nằm giữa khuôn viên rộng 12 ha, dưới bóng mát của hàng trăm tàn cây cổ thụ. Mặt tiền Dinh nằm suốt ngang đại lộ Norodom (nay là Lê Duẩn). Công thự xây dựng tô điểm theo kiểu cách tân barốc (néo-baroque), sử dụng hình khối và đường nét hoành tráng. Ngày 25/9/1869, hoàn thành công trình rất tốn kém chiếm tới 1/4 ngân sách thuộc địa. Tuy nhiên, công việc trang trí nội thất kéo dài tới năm 1875 mới xong.
Ngày 20 - 24/6/1867, khi chưa hoàn thành Dinh Thống Đốc, Lagrandeère đem quân cưỡng chiếm Vĩnh Long - An Giang - Hà Tiên. Từ đó, viên Thống đốc Nam kỳ cai trị cả lục tỉnh. Năm 1873, Francis Garnier theo lệnh Thống đốc Namkỳ hạ thành Hà Nội, rồi lại cho quân đi chiếm Ninh Bình, NamĐịnh và Hải Dương.
Năm 1874, triều đình Huế phải ký Hoà ước Giáp Tuất chịu nhượng địa cho Pháp cả 6 tỉnh Nam kỳ và không được nhận Trung Quốc là thiên triều, tức để cho Pháp toàn quyền thao túng và thương mại trên toàn quốc Việt Nam, thì mới rút quân về Nam, trả lại Hà Nội và các tỉnh vừa chiếm đóng cho Huế. Thế là Thống đốc Nam kỳ vừa trực tiếp quản trị lục tỉnh, vừa có bàn tay nối dài khuấy động trên toàn cõi nước ta.
Năm 1882 - 1883, Henri Rivière cũng theo lệnh và có sự yểm trợ của Thống đốc Nam kỳ, đem quân ra chiếm Hà Nội cùng các tỉnh lân cận lần thứ hai. Triều đình Huế phải cưỡng ép ký hai Hoà ước Quí Mùi (1883), Giáp Thân (1884) chịu nhận cho Pháp bảo hộ nước ta. Trong mấy năm đầu, Pháp còn lúng túng trong việc cai trị: phân biệt Thống đốc Nam kỳ quản trị xứ thuộc địa với Tổng trú sứ (Résident général) trông coi hai xứ bảo hộ Trung kỳ và Bắc kỳ. Sau đó, Pháp đặt chức Toàn quyền lãnh đạo cả 5 xứ Đông Dương. Do đó, Dinh Thống đốc Namkỳ đổi thành Dinh Toàn quyền Đông Dương (Gouverment gé néralde l’Indochine) và dinh Phó Soái trở thành Dinh Thống đốc Nam kỳ (nay là Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh).
Năm 1900 - 1902, các cơ quan lãnh đạo thuộc Chính phủ toàn quyền Đông được chuyển hết ra Hà Nội và lấy Hà Nội làm thủ đô Đông Dương. Phủ toàn quyền được xây dựng tại vườn hoa Ba Đình, theo kiến trúc tân cổ điển với đường nét và hình khối nghiêm trang (nay là Phủ Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam). Tuy nhiên, dinh toàn quyền ở Sài Gòn (tức Dinh Thống đốc Nam kỳ cũ) vẫn giữ nguyên chức năng giành cho quan chức cao cấp nhất cai trị Đông Dương. Tình trạng này kéo dài đến hết năm 1945.
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương, Nhật chiếm đóng hết cơ quan đầu não Đông Dương và giao dần các cơ sở từ kỳ đến tỉnh cho chính quyền Bảo Đại.
Ngày 23/8/1945, Cách mạng lập chính quyền tại Sài Gòn và các tỉnh Nam bộ. Tướng Gracey và bộ đội Anh tới Sài Gòn giải giáp hàng binh Nhật ở phần Nam Đông Dương tới vĩ tuyến 16. Ngày 25/9/1945, Nam bộ kháng chiến bùng nổ, rồi rút lực lượng ra bưng biền. Ngày 28/1/1946, Gracey trao chính quyền cho Pháp. Đô đốc D’Argenlieu được cử làm Cao uỷ Đông Dương - thay thế cho chức toàn quyền cũ - chiếm lại dinh Norodom vì toạ lạc tại đầu đường Norodom - tên nhà Vua Campuchia sang thăm Sài Gòn năm 1863 được đặt tên làm đường, nay là đại lộ Lê Duẩn.
Năm 1955, Pháp phải rút hết nhân viên dân sự và quân sự về nước, theo hiệp đinh Genève 1954. Cao uỷ cuối cùng của Pháp là Salan bàn giao dinh Norodom cho chính quyền Quốc gia. Từ đó gọi là Dinh Độc Lập.
Dinh Độc Lập xây lại mới trên nền Dinh Thống Đốc và trở thành Dinh Thống Nhất từ năm 1975.
Năm 1962, phe đối lập Ngô Đình Diệm dùng máy bay thả bom đánh sập một phần Dinh Độc Lập, không thể sửa chữa được nữa. Kiến trúc sư đoạt giải khôi nguyên La Mã Ngô Viết Thụ được lựa chọn để tái thiết Dinh Độc Lập mới. Công trình qui mô lớn xây dựng suốt từ năm 1962 đến 1966 mới hoàn thanh. Chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ cuối năm 1963, nên chính quyền quân nhân Thiệu - Kỳ rồi một mình Thiệu độc diễn sử dụng Dinh Độc Lập cho tới năm 1975 - khi nước nhà hoàn toàn thống nhất, sau chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn và các tỉnh phía Nam.
Dinh Độc Lập mới được xây dựng có khoảng 20.000m 2diện tích sử dụng, với hơn 100 phòng ốc trên nền cơ sở của Dinh Thống Đốc cũ, theo lối kiến trúc hiện đại nhưng cũng lấy lại những nét hoành tráng và hình khối tạo ấn tượng mạnh mẽ, vững vàng và áp đảo. Thế nên những khoảng trống xen kẽ với khoảng kín, những hành lang chạy dài ở tiền diện và hai bên cánh, những bậc thang lên cửa chính rộng mở oai nghiêm hầu như nhắc nhở đến phong thái của dinh thự cũ. Cùng với kiến trúc sư Ngô Viết Thụ còn có các nghệ sỹ trang trí và điêu khắc Nguyễn Văn Thế, Trọng Nội, Nguyễn Văn Triêm hợp tác thực hiện công trình (4).
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975, hồi 10 giờ 30 ngày 30 - 4 - 1975 tại đây đại diện quân giải phóng miền Nam đã chấp nhận sự đầu hàng vô điều kiện của đại diện chính quyền Sài Gòn. Từ tháng 11/1976, Dinh Độc Lập đổi tên thành Dinh Thống Nhất, là nơi hội họp của Thành phố và Trung ương đồng thời trở thành “Khu di tích Lịch sử Văn hoá” (5).
Dinh Thống Nhất thật đúng là một di tích lịch sử văn hoá, cách mạng đang phát huy tác dụng để các thế hệ ngày nay và mai sau không thể quên những bước thăng trầm của dân tộc đã đi lên từ những khúc quanh gian nan và hào hùng.
1) Hilda Arnold, Promenades dans Saigon. SILI, Sài Gòn, 1984 (trang 45).
2) Phạm Phú Thứ, Tây hành nhật ký (Tô Nam và Văn Vinh dịch). Tập san Văn Đàn, bộ 1, số 34Q, trang 28, Sài Gòn 1961.
3) Taboulet, Les bustes en marbre du palais du Gouvernement à Sài Gòn. In Indochine,pp.27-29.
4) UBND TP Hồ Chí Minh, cộng đồng TP.HCM Lyon, Tổng lãnh sự Pháp tại TP Hồ Chí Minh, Sài Gòn 1698-1998. Kiến trúc - Quy hoạch. NXB TP.HCM 1998, trang 214-215.
5) Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn. Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập I, Hà Nội 1995. Trang 677.