Điều trị sa trực tràng bằng Đông y
I. Nguyên nhân:có nhiều nguyên nhân sinh sa trực tràng, như ở trẻ em niêm mạc và cơ chưa phát triển hoàn chỉnh, do đi tiêu chảy lâu ngày, do suy nhược cơ thể làm co thắt hậu môn và cơ năng hậu môn yếu, phụ nữ rặn nhiều sau sanh, polyp hậu môn, do táo bón lâu ngày, do làm những nghề gây áp lực bụng tăng như đạp xích lô, thợ mộc, công chức văn phòng phải ngồi nhiều,…
II. Phân loại:tùy theo mức độ sa, người ta chia sa trực tràng làm 4 loại:
- Độ I: sa khi rặn đi cầu, khi xong tự thu lên.
- Độ II: sa khi rặn đi cầu, khi xong không tự thu lên được, phải đẩy lên.
- Độ III: sa khi gắng sức nhẹ như chạy, ngồi xổm, ho, hắt hơi.
- Độ IV: sa thường xuyên, liên tục ở hậu môn, nâng lên thì sa xuống
III. Biến chứng:sa trực tràng có các biến chứng
- Chảy máu: do loét niêm mạc hay do vỡ các búi trĩ.
- Viêm loét trực tràng: sa thường xuyên khó đẩy vào nên bị viêm, loét.
- Thắt nghẽn: do co cứng cơ thắt, dẫn đến nghẽn.
- Tắc ruột: nếu có ruột non sa theo trực tràng khi bị thắt nghẽn.
- Vỡ trực tràng: sau một gắng sức mạnh hoặc thắt nghẽn, cố đẩy lên.
- Sa trực tràng kéo theo sa sinh dục ở phụ nữ, thường kèm theo sa âm đạo hoặc tử cung - âm đạo, thoát vị bẹn bìu ở nam giới…
IV. Phép chữa:Đông y và kinh nghiệm dân gian có nhiều phương pháp và bài thuốc chữa sa trực tràng rất độc đáo, như đốt bấc, dùng bài “Bổ Trung ích khí gia giảm”… thường thì dùng thuốc có tính thăng đề, cố sáp, tiêu độc, tiêu búi trĩ…
Bài thuốc:bổ trung ích khí gia giảm
Đảng sâm hay Nhân sâm 15g, Huỳnh kỳ 15g, Bạch truật 10g, Đương qui 10g, Sài hồ 10g, Thăng ma 15g, Trần bì 10g, Cam thảo 10g, Gia thêm: Rễ Vú bò 15g, Dây Mấu 15g, Vỏ cây Ngái (Nái) 15g, Đại táo 3 quả, Sắc uống ngày 1 thang. Dùng từ 10 - 20 thang.
Bài thuốc Nam:
Rễ Vú bò (sao vàng) 30g, Vỏ cây ngái (sao vàng) 30g, Rễ dây mấu (sao vàng) 30g, Xơ trái mướp già (đốt tồn tính) 5g.
Có loại nào dùng loại ấy, không cần có đủ các loại. Sắc uống, ngày 1 thang. Uống liên tục từ 5 - 10 thang. Có thể tán bột mịn, mỗi lần uống 2 muỗng canh, ngày 3 lần.
Bài thuốc rửa:dùng lá Vông Nem hay Rau Sam nấu nước ngâm rửa trực tràng bị sa, để chống nhiễm trùng liên tục đến khi khỏi thì thôi.
Chú ý:
- Nếu sa trực tràng do Polyp, do sỏi bang quang, sa trực tràng độ 3 - 4, có biến chứng tắc ruột, vỡ trực tràng, ung thư trực tràng… phải nhờ đến Tây y.
- Hạn chế làm việc nặng nhọc, nên hạn chế uống cà phê, rượu, ớt…
V. Các vị thuốc nam trong bài:
1. Rễ Vú bò (Ficus hirta Vall):họ dâu tằm.
Còn có tên là cây vú chó, óc chó, sung ba thùy.
Rễ vú bò vị ngọt, hơi đắng, tính bình. Có tác dụng chữa phong tê thấp, bạch đới, ít sữa, bổ gân cốt, khứ ư, tiêu thũng, sinh tân.
Chữa sa tử cung, sa trực tràng, viêm tinh hoàn. Liều dùng từ 30g - 60g, dạng thuốc sắc.
2. Mướp (Luffa cylindrical L):
Còn được gọi là mướp hương, ty qua. Mướp có vị ngọt, tính mát, thanh nhiệt, hóa đàm, giải độc. Xơ mướp có vị ngọt, tính bình, thông kinh hoạt lạc, hóa đàm, lợi thủy. Chữa trĩ ra máu, rong kinh, kiết lỵ. Liều dùng: 4g - 8g (Đốt tồn tính).
3. Cây Ngái (Ficus hispida L.f):họ dâu tằm.
Còn được gọi là cây Nái. Ngái có vị ngọt, tính mát, thanh nhiệt, trừ thấp, tiêu tích, hóa đờm. Quả xanh, hạt và vỏ có tác dụng xổ và gây nôn. Vỏ, thân, lá, quả xanh cây ngái chữa sốt, mất sữa, phòng ngừa sốt rét, mụn nhọt, đinh râu, phù thũng, tiêu chảy do ngộ độc thức ăn, tiêu hóa kém, vàng da. Rễ chữa đau lưng, nhức xương, bí tiểu tiện. Liều dùng từ 10g - 30g.
4. Dây Mấu (Gnetum montanum Markgr):
Còn có tên là: dây sót, day gấm, gắm núi, vương tôn đằng. Họ Gắm. Dây Mấu có vị đắng, tính ôn. Có tác dụng khu phong, trừ thấp, hoạt huyết, tan ứ. Dây Mấu làm sợi bện dây thừng, có trái ăn ngon, bùi. Rễ chữa phong thấp, đau xương, sưng gối (Hạc tất phong), rối loạn kinh nguyệt, rắn cắn, giải độc sơn ăn, giải ngộ độc và chữa sốt, sốt rét, chữa viêm họng cấp và mãn tính. Liều dùng từ 15g - 30g, dạng thuốc sắc.
5. Rau sam (Fortulaca oleracea L):
Còn có tên là Mã xỉ hiện. Rau sam có vị chua, tính lạnh, không độc. Có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, mát máu, tiêu sưn, sát trùng, lợi tiểu. Chữa lỵ, lở ngứa, giun kim. Nấu nước rửa trĩ dò (mạch lương), viêm ngoài da. Trĩ và sa trực tràng là bệnh khá phổ biến. Bệnh có biến chứng làm thiếu máu, xây xẩm, chóng mặt, mắt mờ, tau ù…. gây nhiều phiền phức. Bệnh nếu được chẩn đoán và điều trị sớm bằng Đông y thì rất dễ dàng, ít tốn kém tiền bạc và sức khỏe.