Điều kiện cần thiết để chuyển đổi có hiệu quả các tổ chức kh&cn thủy lợi theo Nghị định 115
Tính tất yếu của việc chuyển đổi
Viện KHTLVN là tổ chức NCKH công lập về chuyên ngành thuỷ lợi. Viện có chức năng NCKH, chuyển giao công nghệ, đào tạo sau đại học, tư vấn và xây dựng công trình về lĩnh vực thủy lợi - thủy điện phục vụ quản lý nhà nước và phát triển nông nghiệp - nông thôn và các ngành kinh tế quốc dân. Việc chuyển đổi hoạt động theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 5.9.2005 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN công lập là bước thay đổi lớn để tăng cường trách nhiệm và nâng cao tính tích cực, chủ động của Viện; tạo điều kiện gắn kết hoạt động R&D với sản xuất kinh doanh và đào tạo nhân lực, đẩy nhanh quá trình xã hội hoá các hoạt động KH&CN thủy lợi. Vấn đề đặt ra là cần phải dựa vào việc xác định nhiệm vụ KH&CN, các hình thức hoạt động sản xuất kinh doanh và các quy định về tài chính cùng các chính sách ưu đãi khác… để tổ chức lại bộ máy và thực hiện lộ trình chuyển đổi như thế nào cho phù hợp, có hiệu quả. Muốn vậy, việc đầu tiên cần phải xác định là điều kiện cần và đủ cho công tác chuyển đổi, từ đó xác định được các bước đi đúng hướng, hợp lý và vững chắc.
Với ý nghĩa và thách thức như vậy, đòi hỏi Viện cần có chiến lược phát triển mới cả trong hoạt động NCKH, phát triển nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở vật chất và hợp tác quốc tế. Đó là nghiên cứu ứng dụng, phục vụ sản xuất, đồng thời nghiên cứu chiến lược của ngành; vừa nhận nhiệm vụ do Nhà nước giao, vừa tìm kiếm các nhiệm vụ khoa học theo đơn đặt hàng của Nhà nước, của sản xuất và đời sống; đào tạo đội ngũ cán bộ KH&CN mang tính kế thừa, đồng đều ở các lĩnh vực; xây dựng các phòng thí nghiệm hiện đại, trang bị các thiết bị thí nghiệm tiên tiến. Tuy vậy, từ chủ trương đến việc triển khai thực hiện là cả một quá trình thay đổi hẳn về tổ chức, cơ chế hoạt động đã tồn tại và phát triển trong một thời gian dài. Để chuẩn bị và tiến hành chuyển đổi có hiệu quả, nên bắt đầu từ đâu, từ công việc gì và thứ tự giải quyết các khâu, các mảng việc như thế nào là một vấn đề khó đối với các tổ chức KH&CN công lập nói chung và Viện KHTLVN nói riêng.
Lĩnh vực KH&CN thủy lợi có những đặc điểm riêng, có đến 70% nhiệm vụ hàng năm của các tổ chức KH&CN thủy lợi là phục vụ cho chiến lược phòng tránh thiên tai, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, an toàn tính mạng con người, phục vụ công ích xã hội... Vì vậy, cần phải phân loại và đưa ra các điều kiện cụ thể cho từng mô hình tự chủ, tự chịu trách nhiệm phù hợp với từng lĩnh vực, từng chuyên môn và cơ chế thị trường. Từ đó phân tích, đánh giá tổ chức nào có thể chuyển đổi ngay sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; tổ chức nào chưa đủ điều kiện chuyển đổi thì cần phải sắp xếp, kiện toàn lại cho phù hợp với chủ trương đổi mới hoạt động KH&CN và phải có lộ trình chuyển đổi cho phù hợp.
Hiện tại, Viện KHTLVN có 14 đơn vị chuyên môn trực thuộc là các đơn vị sự nghiệp có thu, vừa có chức năng phục vụ công tác quản lý nhà nước, vừa làm dịch vụ. Chính vì vậy, trước hết phải phân định rõ việc nào do Nhà nước giao, việc nào Viện tự chủ và đặc biệt là phải phân tích và thấy được những yếu kém về các mặt: Nghiên cứu chuyên môn, phục vụ sản xuất, đào tạo, quảng bá sản phẩm (marketing), mở rộng hoạt động thị trường trong nước, nắm bắt nhu cầu thị trường và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
Vấn đề và cũng là nội dung lớn nhất đặt ra là nghiên cứu, đề xuất các biện pháp khả thi và có cơ sở khoa học nhằm đảm bảo cho tiến trình chuyển đổi thành công trên cơ sở nắm vững hiện trạng, dựa vào định hướng chuyển đổi ở tầm vĩ mô và thực lực về năng lực của đội ngũ cán bộ KH&CN, dựa vào trang bị, năng lực tài chính, thị trường... Nội dung các biện pháp đề xuất phải phù hợp với hoàn cảnh và đặc điểm riêng của một tổ chức KH&CN thủy lợi.
Điều kiện để chuyển đổi có hiệu quả
Để việc chuyển đổi của Viện KHTLVN có hiệu quả, phù hợp với yêu cầu quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm theo tinh thần của Nghị định 115, theo chúng tôi cần có một số điều kiện sau:
Điều kiện 1:
Có sản phẩm công nghệ là kết quả từ nghiên cứu mang hàm lượng KH&CN cao, có nhu cầu thị trường lớn và lâu dài, có khả năng cạnh tranh, có thể thương mại hoá, được thị trường chấp nhận. Viện và các đơn vị trực thuộc phải lấy yêu cầu của sản xuất, của thị trường làm mục tiêu nghiên cứu để tạo ra các sản phẩm có khả năng cạnh tranh, có thị trường ổn định. Các sản phẩm này phải đem lại hiệu quả kinh tế cho xã hội, tạo ra nguồn thu nhập đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển liên tục, bền vững của đơn vị. Đây là điều kiện cần có để khẳng định và công nhận là đơn vị tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Các hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ KH&CN phải chiếm 70-80% tổng doanh thu hàng năm của đơn vị.
Muốn được như vậy, Viện cần xây dựng được cơ chế gắn kết chặt chẽ nghiên cứu với sản xuất, trong đó phải gắn kết quyền lợi của các tổ chức nghiên cứu với cơ sở sản xuất và quyền lợi của các nhà khoa học với sản xuất các sản phẩm KH&CN.
Điều kiện 2:
Có nguồn vốn và cơ sở vật chất, trang thiết bị nghiên cứu đủ mạnh. Viện cần được hỗ trợ về vốn để đủ sức đầu tư ban đầu và đầu tư mạo hiểm cho các hoạt động KH&CN nhằm tạo ra các sản phẩm mới. Bên cạnh đó, cần tiếp tục được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất (nhà xưởng, phòng thí nghiệm, nơi làm việc...) và phải được trang bị những thiết bị nghiên cứu hiện đại để đủ điều kiện nghiên cứu và sản xuất ra các sản phẩm được thị trường chấp nhận. Không đảm bảo điều kiện này, cán bộ khoa học khó có thể tạo ra các sản phẩm công nghệ có hàm lượng KH&CN cao.
Hiện tại, Viện KHTLVN khi chuyển đổi sang hoạt động theo cơ chế mới có số vốn lưu động rất ít để đầu tư cho công tác nghiên cứu, đào tạo và phát triển sản xuất sản phẩm công nghệ cao, do vậy rất khó khăn cho quá trình hoạt động, dẫn đến việc giảm hiệu quả hoạt động KH&CN và sản xuất kinh doanh. Để khắc phục vấn đề này, một mặt Nhà nước cần bố trí nguồn vốn cần thiết ban đầu, mặt khác các Viện và đơn vị trực thuộc cũng phải tạo ra vốn tự có cho hoạt động (tích luỹ từ trước đó, vốn góp, vốn vay...) hoặc phải xây dựng được các phương án “lấy ngắn nuôi dài” và triển khai một cách hiệu quả. Đây cũng được coi là điều kiện quan trọng để thực hiện chuyển đổi cơ chế hoạt động có hiệu quả.
Điều kiện 3:
Cần sắp xếp lại tổ chức bộ máy cho phù hợp; quy định lại chức năng, nhiệm vụ cho các đơn vị theo định hướng vừa có nghiên cứu, vừa có chuyển giao, kinh doanh sản phẩm nghiên cứu và dịch vụ KH&CN… Các đơn vị trực thuộc cần tổ chức theo mô hình viện chuyên đề, viện vùng, trung tâm… có con dấu và tài khoản giao dịch riêng để đảm bảo tính tự chủ.
Bộ máy lãnh đạo của đơn vị phải có năng lực tổ chức và điều hành khoa học, có khả năng xây dựng chiến lược nghiên cứu, sản xuất sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường. Người đứng đầu cơ quan phải có trình độ chuyên môn khoa học cao, có kiến thức quản lý kinh tế - tài chính, năng động và sáng tạo, nhạy bén trước mọi sự biến động; dám làm, dám chịu trách nhiệm và phải là người có tư cách, đạo đức, biết đoàn kết, tập hợp mọi người. Bộ máy cán bộ lãnh đạo dưới quyền do người đứng đầu tuyển chọn phải thực sự là những cánh tay đắc lực của mình trong mọi công việc.
Người lãnh đạo của tổ chức KH&CN có quyền lựa chọn các phương án, các hình thức tổ chức nghiên cứu, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm KH&CN với mọi khách hàng trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, họ có quyền bổ nhiệm lãnh đạo các đơn vị trực thuộc. Đây là điều kiện cần thiết để các tổ chức KH&CN có đầy đủ cơ sở pháp lý, tư cách pháp nhân trong mọi hoạt động NCKH và chuyển giao công nghệ.
Quyền hạn và trách nhiệm cần được phân cấp cụ thể, rõ ràng, tạo điều kiện cho người lãnh đạo hoàn toàn chủ động trong quản lý, sử dụng mọi nguồn lực, không phải chờ đợi xin ý kiến chỉ đạo, giải quyết của cấp trên.
Nhà nước cần có nguồn kinh phí hỗ trợ để Viện có điều kiện sắp xếp lại lực lượng lao động cho phù hợp, thúc đẩy quá trình chuyển đổi nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ phát triển KH&CN ở nước ta nói chung và KH&CN thủy lợi nói riêng, nhằm tạo bước tiến đột phá, toàn diện, bền vững như tinh thần Nghị định 115 của Chính phủ, ngoài việc đảm bảo các điều kiện nêu trên, xin kiến nghị thêm một số vấn đề sau:
- Nhà nước cần có sự hỗ trợ cho các đơn vị phục vụ công tác quản lý nhà nước và dịch vụ công để thực hiện các nội dung nghiên cứu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Có giải pháp hỗ trợ cho các đơn vị KH&CN chưa có điều kiện phát triển sản xuất, dịch vụ (hỗ trợ về cơ sở vật chất, trang thiết bị, cho phép chuyển đổi theo bước đi và lộ trình phù hợp).
- Các cơ quan quản lý nên điều phối và giới thiệu các tổ chức KH&CN trong nước có uy tín cho các doanh nghiệp để hai bên có cơ hội cùng thực hiện các đề tài/dự án của doanh nghiệp nhằm gắn kết nghiên cứu với sản xuất, tạo điều kiện để các tổ chức KH&CN và doanh nghiệp cùng phát triển.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách quản lý KH&CN, đặc biệt là chính sách và cơ chế tài chính. Có chính sách giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các đơn vị sự nghiệp KH&CN khi chuyển đổi.
- Viện KHTLVN thuộc tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ theo tiêu chí phân loại. Nhưng thực tế phải đảm nhận tới 70% nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược, phục vụ công ích cho xã hội (như nghiên cứu phòng chống thiên tai, biến đổi khí hậu toàn cầu, chống sa mạc hóa…). Vì vậy, cần được áp dụng một cơ chế phù hợp. Nên chăng có thể cho Viện thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm 50%, Nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động 50%.
- Đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có cơ chế hỗ trợ, đầu tư cho việc xây dựng cơ sở vật chất cho các tổ chức KH&CN thủy lợi nói chung, Viện KHTLVN nói riêng để đảm bảo hoạt động có hiệu quả sau khi chuyển sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.








