Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 23/11/2006 00:50 (GMT+7)

Đi tìm mộ Phan Huy Chú (1782 – 1840)

Cứ liệu gia phả

Hiện nay trong dòng họ và Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được 4 gia phả họ Phan Huy. Trước hết tôi xin lưu ý, dòng họ Phan Huy vốn xưa là Phan Văn, đến đời thứ tám là Phan Huy Cận mới đổi thành Phan Huy. Tổ tiên xa nhất gọi là Tiên tổ mà gia phả ghi nhận thuộc thời Lê sơ thế kỷ XV. Dòng họ trước đây ở xã Ngọc Điền (xã Thạch Thượng, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, thị trấn huyện lỵ huyện Thạch Hà hiện nay). Đến đời vua Lê Thánh Tông (1460-1479) mới dời về thôn Chi Bông, sau đổi là thôn Hữu Phương (xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Đời thứ bảy, dòng trưởng là Phan Văn Canh dời từ thôn Hữu Phương về thôn Gia Thiện (xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh), dòng thứ vẫn ở Hữu Phương. Dòng họ Phan Huy định cư tại Gia Thiện cho đến nay.

Đời thứ sáu là Đô đốc Vinh Lộc hầu Phan Văn Kính có hai người con gái là Phạm Thị Nẫm được tuyển chọn làm cung tần chúa Tây Đô vương Trịnh Tạc (1657 - 1682) và Phan Thị Lĩnh làm cung tần chúa Định vương Trịnh Căn (1682-1709). Hai phi tần đã từng về xã Thuỵ Khuê (thôn Thuỵ Khuê, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây) tu sửa chùa Hoa Phát, chùa Bối Am (chùa Một Mái), dựng đền thờ Một Mái thờ cha gọi là “Phan Đô đốc từ” trong đền tạc tượng thờ, đúc chuông và mở ao vườn làm ao công của làng gọi là Ao Gạch... Nhưng đến đời thứ tám, Tiến sĩ Phan Huy Cận (1722-1789) mới nhập cư ở Thuỵ Khuê và được coi là Tổ của chi phái Sài Sơn, trong gia phả thường gọi là Sơn phái tức chi phái ở Sơn Tây. Họ Phan Huy có nhiều chi phái ở nhiều nơi nhưng vào cuối thời Lê trung hưng và đầu thời Nguyễn, tức thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, chi phái Sài Sơn phát đạt nhất.

Hiện nay dòng họ còn lưu giữ được 4 bản gia phả. Tại Gia Thiện – Hà Tĩnh lưu giữ được 2 bản đều mang tên “Phan gia công phả”, một bản đầy đủ 167 trang, một bản thiếu một số trang (1). So sánh nội dung thì hai văn bản cơ bản giống nhau, gần như sao chép từ một văn bản chung trước đó. Chi phái Sài Sơn trước đây cũng lưu giữ 1 văn bản gia phả do cụ Phan Huy Diêu giữ và tôi đã có dịp được mượn về nhà xem, sao chụp lại một số phần cần thiết. Tiếc rằng sau khi cụ Phan Huy Diêu mất, bản gia phả này bị thất lạc và cho đến nay vẫn chưa tìm ra. May thay Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được hai văn bản gia phả họ Phan Huy do Viện Viễn Đông bác cổ Pháp (EFEO) sưu tầm. Đó là “Phan gia thế tự lục” do Phan Huy Quýnh (1775-1844) soạn tại Sài Sơn năm Bính Tuất niên hiệu Minh Mệnh thứ 7 tức năm 1826 (2) và “Phan tộc công phả” do Phan Huy Dũng (1842-1912) soạn với bài dẫn viết năm Canh Dần niên hiệu Thành Thái tức năm 1890 và bài tựa tân biên năm Duy Tân thứ nhất tức năm 1907 (3). EFEO thu thập hai gia phả này tại chi phái Sài Sơn. Giữa 4 gia phả trên có một ít khác biệt, nhưng về cơ bản là thống nhất và bổ sung cho nhau. Về hành trạng của Phan Huy Chú thì “Phan tộc công phả” của Phan Huy Dũng và “Phan tộc công phả” của dòng họ Phan Huy ở Gia Thiện – Hà Tĩnh chép tương đối đầy đủ nhất và hoàn toàn thống nhất.

Theo tư liệu gia phả thì Phan Huy Chú (1782-1840) thuộc đời thứ chín, là con trai thứ ba của Tiến sĩ Phan Huy ích (1750-1822) và mẹ là Ngô Thị Thục (1750 -1792), con gái cả cuat Tiến sĩ Ngô Thì Sĩ. Cuộc đời thi cử và làm quan của Phan Huy Chú gặp nhiều trắc trở, hai lần đi thi (năm 1807, 1819) chỉ đỗ Tú tài, 12 năm làm quan (từ 1821 đến 1833) cũng không được tin cậy khi thăng giáng, có khi bị khiển trách, ghép tội và bãi chức, cách chức. Chí hướng và tâm huyết của ông giành cho đọc sách, khảo cứu và trước tác. Năm 1833 sau chuyến công cán ở Giang Lưu Ba (batvia tức Jakarta, Indonesiahiện nay) về, ông lấy cớ đau chân, xin trí sĩ, trở về cuộc đời dạy học và sáng tác thơ văn (4).

Phan Huy Chú có hai vợ. Bà chánh thất là Nguyễn thị Vũ, người làng An Lũng (Hoài Đức, Hà Tây), con gái Thượng thư Bộ lại Nguyễn Thế Lịch (1748-1817) và cháu ngoại Đại vương Nguyễn Quý Đức làng Đại Mỗ (Từ Liêm, Hà Nội), Nguyễn Thế Lịch có tên là Nguyễn Gia Phan đỗ Tiến sĩ cùng khoa vơi Phan Huy ích, Ngô Thì Nhậm (khoa thi năm 1775), cùng theo Tây Sơn và cùng bị vua Gia Long sai đánh đòn trước Văn Miếu. Bà sinh 4 con trai là : Phan Huy Uyên, Phan Huy Chuẩn, Phan Huy Triệt, Phan Huy Hàm và 1 con gái là Phan thị Cơ. Bà thứ thất, người làng Thanh Mai (Ba Vì, Hà Tây) gia phả không ghi họ tên. Bà sinh 1 con trai là Phan Huy Nhuận. Theo gia phả, sau khi nghỉ hưu, Phan Huy Chú về dạy học tại quê bà vợ thứ và mất tại đây vào năm Minh Mệnh thứ 21 tức năm 1840. Theo “Phan tộc công phả” thì khi mất, mộ Phan Huy Chú táng tại Thanh Mai. Trong số 5 con trai của Phan Huy Chú thì:

- Phan Huy Uyên, tục gọi Cả Khế, mất sớm.

- Phan Huy Chuẩn tục gọi Hai Kế, nhập tịch làng Đại Mỗ để lo thờ cúng tổ tiên bên ngoại là bà ngoại họ Ngô ở làng Tả Thanh Oai, mẹ họ Nguyễn ở làng An Lũng và ông ngoại ở làng Đại Mỗ.

- Phan Huy Triệt tục gọi Ba Mai, nhập tịch làng Thanh Mai.

- Phan Huy Hàm sinh 1 con gái và mất sớm.

- Phan Huy Nhuận cũng nhập tịch làng Thanh Mai.

Như vậy tư liệu gia phả cung cấp hai căn cứ quan trọng:

- Hai người con trai của Phan Huy Chú nhập tịch tại Thanh Mai và lập thành một chi phái họ Phan Huy ở đây.

- Vào cuối đời, Phan Huy Chú dạy học và sống 7 năm tại Thanh Mai rồi năm 1840 mất và mộ táng tại đây.

Đấy là những cứ liệu trong gia phả cho phép định hướng đi tìm mộ Phan Huy Chú tại làng Thanh Mai.

Điều tra thực địa

Làng Thanh Mai tục gọi là Kẻ Mơ, thuộc tổng Thanh Mai, huyện Tiên Phong, phủ Quảng Oai, trấn Sơn Tây, nay là thôn Mai Trai, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây (5).

Ngày 19 tháng 4 năm 2001, tôi cùng gia đình và ông Phan Huy Dục thuộc chi phái Sài Sơn tìm về làng Thanh Mai, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Chúng tôi gặp Đảng uỷ và UBND xã Vạn Thắng, trong lãnh đạo xã cũng có người thuộc dòng họ Phan Huy. Các đồng chí rất vui vẻ tiếp chúng tôi và cho biết tại Mai Trai chỉ có một dòng họ Phan với tên lót là Phan Huy hay Phan Văn. Chúng tôi về thôn Mai Trai gặp một con cháu và vị cao tuổi trong họ Phan Huy. Tất cả hậu duệ đều khẳng định là con cháu của một chi phái họ Phan Huy nhưng không nhớ tên vị tiên tổ đến đây đầu tiên. Gia phả chữ Hán đã bị đốt cháy năm 1948 khi quân Pháp nhay dù xuống Bach Hạc rồi càn quét cả vùng này. Qua ký ức lưu truyền con cháu chỉ biết vị tiên tổ gốc ở làng Thầy (tức Sài Sơn), về đây dạy học, thường gọi là Ông Sứ hayn Ông Chánh. Điều vui mừng là các cụ cho biết mộ tổ họ Phan Huy vẫn còn và mới được con cháu xây lại năm 1994. Các cụ cũng cho biết sau con cháu sau này ít người học hành đỗ đạt mà phần lớn làm ruộng và buôn bè trên sông Đà, một nghề phổ biến ở vùng này.

Chúng tôi đi thăm mộ tại xứ Nội Ngân thuộc địa phân thôn Mai Trai, ngôi mộ rõ ràng mới xây và có ghi rõ ngày xây là 20-12-1994. Mộ hình khối vuông, trên cùng có mái hình chóp bốn cạnh rồi tiếp đến bốn mái hiên. Trong mộ có bia viết chữ quốc ngữ “Mộ tổ họ Phan”, dưới ghi ngày “Ky 22-1”.

Chúng tôi tin rằng đây là mộ Phan Huy Chú, nhưng cần xác minh thêm. Điều băn khoăn nhất của tôi là ngày giỗ theo một cuốn gia phả do Phan Huy Long và Phan Huy Uốn biên soạn ở Sài Gòn năm 1963 là ngày 27 tháng 4 (6) mà trên mộ chí lại ghi là 22 tháng 1.

Trở về Hà Nội, tôi tìm đến gặp cụ bà Phan Huy Diêu (1917-2002) là người cao tuổi nhất trong chi phái họ Phan Huy ở Sài Sơn, năm 2001 đã 84 tuổi và đã từng buôn bán ở vùng Thanh Mai. Cụ cho biết, dân buôn bè sông Đà rất vất vả, phải lo làm ăn cho đến cuối tháng chạp mới về nhà ăn lo chuẩn bị ăn tết và thường sau Tết, trong tháng giêng mới làm lễ cúng tổ tiên. Do đó, ngày giỗ 22-1 có thể là ngày giỗ Tổ của con cháu theo tập quán làm ăn của dân buôn bè. Đấy là một giả thuyết giải thích sự khác biệt về ngày giỗ chép trong gia phả và ngày giỗ con cháu thực hiện trong thực tế.

Ngày 21 tháng 1 năm Bính Tuất -2006, tôi lại cùng gia đình ông Phan Huy Khang và Phan Huy Dục thuộc chi phái Sài Sơn về cúng giỗ cùng bà con họ Phan Huy ở Thanh Mai. Lần này chúng tôi may mắn được gặp tất nhiều con cháu của hai chi ở Thanh Mai và Đại Mỗ đều là hậu duệ trực tiếp của Phan Huy Chú và một số chi phái khác.

Theo gia phả có thể tóm lược thành sơ đồ con cháu chi phái họ Phan Huy ở Thanh Mai và Đại Mỗ như sau (xem sơ đồ).

Với sự có mặt khá đông của con cháu hai chi ở Thanh Mai và Đại Mỗ, trong buổi trao đổi, nhiều thông tin liên quan đến việc xác minh mộ Phan Huy Chú được tập hợp đầy đủ hơn. Cả hai chi này đều không giữ được gia phả chữ Hán, đó là điều đáng tiếc. Nhưng qua trao đổi, con cháu hai chi trực hệ của Phan Huy Chú, theo ký ức lưu truyền trong dòng họ đều thống nhất ghi nhớ: Tiên tổ là một thày giáo từ Thầy (tức Sài Sơn) đến dạy học tại quê vợ ở Thanh Mai, gốc từ Hoan Châu(tức Nghệ Tĩnh) thường gọi là Ông Sứ hay Ông Chánh Sứ. Những thông tin hoàn toàn phù hợp với quê quán và cuộc đời của Phan Huy Chú.

- Quê ở của Thầy (tức Sài Sơn) là quê của chi phái họ Phan Huy do Tiến sĩ Phan Huy Cận khai lập mà Phan Huy Chú là cháu gọi bằng ông nội.

- Quê gốc ở Hoan Châu là họ Phan Huy ở Gia Thiện - Hà Tĩnh hiện nay, trước thuộc Hoan Châu hay Nghệ An.

- Làm nghề dạy học vì từ sau khi xin nghỉ hưu, Phan Huy Chú về quê bà vợ thứ ở Thanh Mai dạy học.

- Thường gọi là Ông Sứ hay Ông Chánh Sứ vì trong thời gian làm quan cho triều Nguyễn, Phan Huy Chú ba lần được cử đi sứ nước ngoài: năm 1824 được cử làm Phó sứ sang triều Thanh, năm 1830 cũng làm Phó sứ sang triều Thanh, năm 182 được cử đi công cán ở Giang Lưu Ba tức Batavia (Jakarta ở Indonesia hiện nay) (7).

Con cháu không nhớ tên vị tổ thứ nhất, nhưng lại nhớ khá rõ các vị tổ về sau thuộc thế hệ thứ ba, thứ tư của Phan Huy Chú như sự ghi chép của gia phả. Tất cả thông tin đó tổng hợp lại cho phép khẳng định Phan Huy Chú đúng là vị tổ của chi họ Phan Huy ở Thanh Mai và Đại Mỗ.

Về ngôi mộ Phan Huy Chú, các cụ cao tuổi cho biết thêm, ngôi mộ đã di chuyển lần thứ nhất vào năm 1967 và năm 1994 chuyển đến vị trí hiện nay rồi xây dựng lại. Các cụ còn nhớ khi đào lên thấy hài cốt đã cải táng, đặt trong một nồi đất to, trên úp một viên gạch cổ. Cải táng trong nồi đất là tập quán phổ biến ở vùng Ba Vì và thường dùng nồi đất của lò gốm Phú Nhị gần thị xã Sơn Tây hiện nay.

Con cháu còn ghi nhớ, ngoài ngôi mộ tổ họ Phan Huy, còn hai mộ tổ đời thứ hai ở Thanh Mai. Đối chiếu với phả hệ, đời thứ hai là Phan Huy Triệt và Phan Huy Nhuận.

Như vậy đối chiếu tư liệu gia phả với ký ức con cháu thuộc hậu duệ của Phan Huy Chú ở Thanh Mai và Đại Mỗ, có thể đi đến kết kuận là ngôi mộ tổ họ Phan còn được bảo tồn ở Thanh Mai, nay là thôn Mai Trai, xã Van Thắng, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây là mộ Phan Huy Chú.

Vấn đề duy nhất cần xác minh thêm là ngày mất của Phan Huy Chú. Trên ngôi mộ hiện còn ở Mai Trai ghi là 22-1, do con cháu mới ghi lại năm 1994 nhưng trên cơ sở ngày giỗ tổ hàng năm vẫn được tổ chức vào ngày này. Ngày mất 27-4 năm Canh Tý (1840) là theo bản “Gia phả họ Phan” do Phan Huy Long và Phan Huy Uẩn biên soạn năm 1963, nhưng cho đến nay bản gốc bằng chữ Hán vẫn chưa tìm thấy, còn các bản gia phả chữ Hán đang được lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm và tại họ Phan Huy ở Gia Thiện – Hà Tĩnh thì không ghi ngày mất của Phan Huy Chú. Vấn nđề này xin lưu lại để tiếp tục tra cứu, xác minh sau và có hai khả năng: thứ nhất, ngày mất của Phan Huy Chú là ngày 27-4 và con cháu tổ chức giỗ tổ vào ngày 22-1 theo tập quán làm ăn của dân buôn bè; thứ hai, ngày mất của Phan Huy Chú đúng là ngày 22-1 và ghi chép của bản gia phả mới biên soan năm 1963 đã nhầm lẫn. Trong lúc chờ đợi sự xác minh, tôi đề nghị nên chấp nhận ngày giỗ 22-1 mà lâu nay hằng năm con cháu chi phái trực hệ của Phan Huy Chú ở Thanh mai và Đại Mỗ vẫn tổ chức giỗ tổ Phan Huy Chú.

Trên cơ sở xác định mộ Phan Huy Chú, con cháu trong họ cùng Sở Văn hoá thông tin Hà Tây có căn cứ khoa học để lập kế hoạch bảo tồn, tôn tạo chuẩn bị cho kỷ niệm 225 năm sinh của danh nhân vào năm 2007.

---------------------------

1. Hai bản gia phả Phan tộc công phảnày hiện nay do ông Phan Huy Xương bảo quản tại Gia Thiện, xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Chương trình nghiên cứu gia phả ViệtNamcủa Viện Việt Nam học và khoa học phát triển thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, đang dịch và xuất bản cuốn gia phả này kèm theo bản chụp nguyên bản chữ Hán.

2. Phan gia thế tự lục, Viện nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2691

3. Phan tộc công phả,Viện nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2693

4. Phan Huy Lê, “Phan Huy Chú – cuộc đời và sự nghiệp”, trong Tìm về cội nguồn. NXB Thế giới, hà Nội 1999, T.II, tr 693 -712.

5. Các tổng trấn xã danh bị lãm, bản dịch Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1989, tr.41. Đồng Khánh địa dư chí lược, tỉnh Sơn Tây, bản in và dịch. NXB Thế giới, Hà Nội 2003, T.I, tr.907.

6. Gia phả họ Phando Phan Huy Long và Phan Huy Uuẩn soạn, Sài Gòn 1963, bản đánh máy.

7. Phan Huy Chú , Hải trình chí lược/Recit sommaire d’ un voyage en mer. Phan Huy Lê, Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp dịch và giới thiệu, Paris 1994.

Nguồn :   T/C Xưa Nay, số 265, 8/2006

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.