Đẩy mạnh hoạt động khoa học và công nghệ cấp huyện, một số nội dung cần quan tâm
1. Thực trạng hoạt động khoa học và công nghệ cấp huyện ở tỉnh Thanh Hoá:
- Về tổ chức bộ máy và hoạt động quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ trên địa bàn huyện:
Lãnh đạo phụ trách khoa học và công nghệ (KH&CN) là 1 đồng chí Phó Chủ tịch UBND cấp huyện, đồng thời là Chủ tịch Hội đồng KH&CN cấp huyện. Một số huyện nhiệm vụ này do Chủ tịch UBND huyện đảm nhiệm (Bá Thước, Quan Hoá, Như Xuân). Cũng có huyện đã cơ cấu Phó Bí thư huyện ủy hoặc Trưởng ban Tuyên giáo huyện ủy tham gia Hội đồng KHCN huyện như Quảng Xương, Tĩnh Gia.
Phòng chuyên môn được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về KH&CN trên địa bàn huyện hầu hết là Phòng Công thương. Tuy nhiên, do đặc thù về quản lý nhà nước nên một số đơn vị đã giao cho Phòng kinh tế (thành phố Thanh Hoá, Thị xã Bỉm Sơn) hoặc Phòng Nông nghiệp (Hoằng Hoá).
Lãnh đạo phòng chuyên môn được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về KH&CN trên địa bàn huyện là Trưởng phòng Công thương, Kinh tế, Nông nghiệp như: Nga Sơn, Hoằng Hoá, Hậu Lộc, Quan Hoá, Tĩnh Gia, Yên Định, Quảng Xương, Như Xuân, Bỉm Sơn…, hoặc giao cho Phó trưởng phòng như: Thường Xuân, Bá Thước…
Cán bộ được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về KH&CN phần lớn là chuyên viên của các phòng được giao nhiệm vụ phụ trách về hoạt động KH&CN, số lượng 1-2 chuyên viên, có huyện giao cho lãnh đạo phòng Nông nghiệp thực hiện như ở Tĩnh Gia. Bên cạnh đó, một số huyện vẫn chưa bố trí được cán bộ làm công tác KH&CN(huyện Ngọc Lặc).
Nhìn chung, công tác quản lý hoạt động KH&CN của cán bộ được phân công phụ trách không được thường xuyên, liên tục. Một số cán bộ đã có thời gian làm công tác KH&CN lại được chuyển sang làm công tác khác hoặc đã nghỉ hưu, nhưng chưa được kịp thời bổ sung, thay thế hoặc phân công lại. Về nghiệp vụ quản lý KH&CN, tuy đã có một số cán bộ tham gia các lớp tập huấn về quản lý nhà nước trong hoạt động KH&CN do Bộ KH&CN và Sở KH&CN tổ chức hàng năm, nhưng cũng còn nhiều cán bộ chưa được tập huấn, thời gian phân công phụ trách lĩnh vực này còn ít, nếu được phân công thì chủ yếu là cán bộ làm công tác kỹ thuật tại các phòng chức năng của huyện chuyển sang, nên kinh nghiệm và nghiệp vụ còn hạn chế, chưa thực sự đủ năng lực tham mưu quản lý nhà nước về các hoạt động KH&CN trên địa bàn
- Hoạt động tham mưu, tư vấn về KH&CN (Hội đồng KH&CN cấp huyện):
Theo báo cáo từ các huyện, đến nay đã có 27/27 huyện thành lập Hội đồng KH&CN cấp huyện. Số lượng thành viên Hội đồng KH&CN ở các huyện giao động khoảng 7-13 thành viên, trong đó phần lớn Hội đồng có số lượng thành viên nhiều nhất là Tĩnh Gia, Nga Sơn (13 người), thấp nhất là Ngọc Lặc (6 người).
Phần lớn Chủ tịch Hội đồng là các đồng chí Phó chủ tịch UBND huyện (24 huyện), cũng có huyện Chủ tịch UBND là Chủ tịch Hội đồng khoa học (Quan Hoá, Bá Thước, Như Xuân). Thành phần Hội đồng KH&CN hầu hết là các đồng chí lãnh đạo các phòng Nông nghiệp, Công thương, Giáo dục và lãnh đạo các trạm thú y, trạm khuyến nông huyện… Với cơ cấu đầy đủ của Hội đồng, bao gồm các đồng chí lãnh đạo các phòng chức năng của huyện là điều kiện thuận lợi trong công tác xem xét các vấn đề có liên quan đến KH&CN để tư vấn cho Chủ tịch UBND các huyện.
Ngay sau khi thành lập Hội đồng khoa học huyện, bản thân các Hội đồng đã tham mưu tư vấn cho Chủ tịch UBND huyện ban hành quy chế hoạt động riêng cho từng huyện, trong đó nêu rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và phương thức hoạt động của Hội đồng. Trong thời gian vừa qua, nhiều Hội đồng KHCN đã làm tốt công tác tư vấn, phản biện khoa học, đóng góp nhiều ý kiến cho các đề án của huyện, các chương trình ứng dụng kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất, đời sống và đề xuất nhiệm vụ KH&CN hàng năm, giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của địa phương; tư vấn cho huyện.
Bên cạnh những kết quả đạt được ở một số huyện, Hội đồng KH&CN chưa thật sự thể hiện rõ vai trò trách nhiệm của mình trong công tác tư vần và phản biện khoa học, chất lượng tư vấn KH&CN chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn sản xuất và đời sống trên địa bàn huyện.
- Tình hình tài chính cho hoạt động KH&CN cấp huyện:
Hàng năm, Sở Khoa học và Công nghệ ký kết hợp đồng để cấp kinh phí hỗ trợ cho các huyện, thị xã và thành phố, với số kinh phí từ 30 – 45 triệu đồng/huyện/năm. Số kinh phí tuy không nhiều, nhưng đây lại là nguồn kinh phí cho công tác quản lý hoạt động khoa học ở các huyện, cụ thể:
+ Kinh phí SNKH do tỉnh hỗ trợ hàng năm cho 27 huyện 1 năm là: 850 triệu, tổng kinh phí SNKH tỉnh đã hỗ trợ cho hoạt động quản lý KH&CN giai đoạn 2006 – 2009 là: 3,5 tỷ đồng.
+ Kinh phí của huyện đầu tư: Theo số liệu báo cáo của các huyện thì số kinh phí do huyện đầu tư thêm cho công tác quản lý hoạt động KH&CN ở các huyện gần như là chưa có, hoặc nếu có thì chủ yếu được đầu tư vào hoạt động khuyến nông hoặc khuyến công (Thường Xuân đầu tư 70 triệu cho hoạt động khuyến công, Tĩnh Gia đầu tư 300 triệu cho hoạt động khuyến nông…)
Mục tiêu hỗ trợ kinh phí sự nghiệp khoa học cho cấp huyện là thúc đẩy quản lý nhà nước và khuyến khích hoạt động KH&CN trên địa bàn các huyện. Nhưng với việc chi phí, mà chủ yếu là tập trung vào công tác tuyên truyền tập huấn chuyển giao những KTTB mới vào trong sản xuất là thật sự chưa hiệu quả.
- Một số kết quả nổi bật trong hoạt động KH&CN trên địa bàn huyện giai đoạn 2006 – 2009:
Trong lĩnh vực Nông nghiệp, tập trung vào giống cây trồng, với việc làm chủ công nghệ sản xuất hạt lúa lai F1, tuyển chọn thành công một số tổ hợp ngô lai đơn (VL885, CP999), giống ngô chịu hạn (NK4300, CH209). Một số kết quả nghiên cứu thành công về giống cây đã được tỉnh đồng ý đưa vào sản xuất đại trà như: Giống ngô VN 8960, năm 2009 được đưa vào cơ cấu giống ngô lai chịu hạn phục vụ cho các huyện miền núi; giống lúa chịu hạn (ĐB5) đã và đang từng bước khẳng định vai trò của mình trên thị trường; giống mía ROC 10, ROC 16, đưa vào trồng phổ biến trong tỉnh (kết quả của đề tài nghiên cứu phục tráng giống mía); Nhân nhanh các giống lạc L12, L14, L23, L25… đạt tiêu chuẩn của các cấp giống siêu nguyên chủng, nguyên chủng và xác nhận để đưa vào sản xuất đại trà trên địa bàn 2 huyện Tĩnh Gia và Hoằng Hoá, với quy mô hàng ngàn ha.
Kết quả nghiên cứu của dự án “Nghiên cứu xây dựng cơ cấu giống cây trồng hợp lý cho vùng đất 1 vụ mùa chờ nước trời ở huyện Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá” không chỉ làm thay đổi tập quán canh tác lạc hậu có từ lâu đời ở một số xã thuộc vùng miền của Cẩm Thủy mà còn đưa diện tích đất canh tác 1 vụ mùa có năng suất bấp bênh (chỉ đạt 2-3 tấn/ha/năm) trở thành vùng sản xuất 1 vụ lúa + 2 vụ đậu tương với năng suất lúa mùa đạt 1,5 tấn/ha.
Trong lâm nghiệp, đã nghiên cứu tuyển chọn giống cây lâm nghiệp cho trồng rừng nguyên liệu giấy (keo lai, keo tai tượng, keo lá tràm, luồng, bạch đàn mô), từ kết quả trên ngành nông nghiệp đã đề nghị tỉnh bổ sung vào cơ cấu giống cây lâm nghiệp.
Trong chăn nuôi, dự án: “Ứng dụng KHCN xây dựng mô hình chăn nuôi gia cầm an toàn dịch bệnh tại xã Hoằng Trinh – Hoằng Hoá, Yên Trung – Yên Định đã thu được kết quả khả quan. Bằng thiết bị sát trùng tại chỗ cùng với những giải pháp về phòng trừ dịch bệnh tiên tiến, trong thời gian qua mặc dù bệnh hoành hành ở nhiều nơi, nhưng các mô hình chăn nuôi gia cầm vẫn phát triển bình thường, không xảy ra dịch bệnh, hiệu quả kinh tế cao gấp 1,5 lần so với trước khi triển khai dự án. Từ kết quả này, ngành nông nghiệp đang khuyến cáo cho bà con nông dân nhanh chóng học tập kinh nghiệm để phát triển chăn nuôi bền vững trong xu thế cạnh tranh hội nhập quốc tế.
Trong nuôi trồng thủy sản: Làm chủ công nghệ sản xuất giống cua biển, tôm sú, cá bống bớp, ngao Bến Tre, công nghệ sản xuất luân trùng làm thức ăn cho ấu trùng cua, cá rô phi đơn tính đực, đưa vào sản xuất thành công ở Hoằng Hoá, Quảng Xương, Nga Sơn.
- Trong phát triển ngành nghề nông thôn: nhờ đẩy mạnh hoạt động KH&CN trong sản xuất ở các huyện, đồng thời kết hợp với nhiều chương trình, dự án hỗ trợ nông thôn miền núi (Chương trình 134, 135, 30a…) nhiều ngành nghề nông thôn được khôi phục như: nghề thêu ren, nghề dệt thổ cẩm, theo đó nhiều ngành nghề mới cũng bắt đầu hình thành và bắt đầu đi vào hoạt động có hiệu quả.
Đánh giá chung:
Hoạt động quản lý KH&CN trên địa bàn huyện trong giai đoạn 2006 – 2009 đã có những chuyển biến mới, rõ nét. Tổ chức bộ máy quản lý KH&CN đã được kiện toàn và thiết lập ở tất cả các huyện, Hội đồng KHKT đã đi vào hoạt động theo quy chế ban hành, bước đầu đã thể hiện rõ vai trò trách nhiệm của tổ chức tư vấn KH&CN cho Chủ tịch UBND huyện.
Với nguồn kinh phí sự nghiệp khoa học hỗ trợ, các huyện đã tổ chức được nhiều hoạt động, trong đó tập trung vào hoạt động tập huấn chuyển giao KTTB mới vào đời sống sản xuất, góp phần mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực cho nhân dân. Tiêu biểu như các huyện Thường Xuân, TP Thanh Hoá, Nga Sơn, Hoằng Hoá…
Tuy nhiên, nhìn chung hoạt động quản lý về KH&CN trên địa bàn huyện vẫn còn nhiều hạn chế. Thực tế cho đến nay mới có 12/27 huyện (các huyện báo cáo) bố trí cán bộ công chức làm công tác khoa học, số còn lại là chưa có cán bộ chuyên trách, nếu có thì chỉ là kiêm nhiệm, nên việc đầu tư thời gian và công sức vào công tác này là chưa nhiều. Cán bộ phụ trách KHCN còn lúng túng trong việc triển khai quản lý KHCN. Nhiều Hội đồng KHCN tư vấn những vấn đề chưa sát với yêu cầu thực tiễn, dẫn đến nhiều đề xuất các nhiệm vụ KHCN chất lượng không cao.
Sự phối hợp giữa Sở KH&CN và các huyện, đặc biệt là các phòng chuyên môn được giao quản lý hoạt động KH&CN còn chưa liên tục. Nhiều nhiệm vụ mà Sở KH&CN tiến hành trên địa bàn huyện theo chức năng (kiểm tra, thành tra, kiểm định đo lường…) chưa có được sự phối hợp chặt chẽ với các phòng chức năng của huyện.
Việc cấp phát kinh phí còn gặp nhiều khó khăn, nhất là khâu thủ tục hành chính, kinh phí cấp cho các huyện còn hạn hẹp (30 – 45 triệu/huyện), trong khi đó việc đầu tư bổ sung kinh phí này từ huyện là gần như không có.
2. Một số giải pháp để đẩy mạnh hoạt động khoa học và công nghệ trên địa bàn huyện:
Đối với các huyện:
- Chủ động phối hợp với các ngành có liên quan để thực hiện tốt Thông tư liên tịch số 05/2008/TTLT-BKHCN-BNV ngày 18/6/2008 của Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Nội vụ; Quyết định 4006/QĐ-UBND ngày 11/12/2008 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá về việc hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về khoa học công nghệ thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện. Trong nnăm 2010 mỗi huyện phải bố trí được từ 1-2 cán bộ công chức trong tổng số biên chế được giao hàng năm làm công tác chuyên trách quản lý nhà nước về khoa học công nghệ. Đồng thời củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng khoa học và công nghệ.
- Chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động khoa học và công nghệ hàng năm, phục vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị mình. Ngoài kinh phí sự nghiệp khoa học được hỗ trợ hàng năm, các huyện chủ động trong việc phân bổ ngân sách, lồng ghép với các chương trình dự án khác, để huy động nguồn vốn đầu tư cho hoạt động khoa học công nghệ tại địa bàn.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực tiêu chuẩn – đo lường – chất lượng, sở hữu trí tuệ, an toàn bức xạ, thanh tra, kiểm tra, thực hiện tốt công tác thống kê báo cáo và thông tin về Khoa học công nghệ. Chủ động phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ trong công tác tuyên truyền; phổ biến các văn bản luật, dưới luật có liên quan đến hoạt động khoa học công nghệ và thông báo Kết luận số 234-KL/TW của Bộ Chính trị về báo cáo kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) về khoa học và công nghệ và nhiệm vụ, giải pháp phát triển khoa học và công nghệ từ này đến năm 2020 đến các tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý.
Đối với Sở Khoa học và Công nghệ:
- Hướng dẫn các huyện thành lập và củng cố về tổ chức và hoạt động của Hội đồng khoa học và công nghệ cấp huyện.
- Hướng dẫn các huyện xây dựng kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ hàng năm và 5 năm. Hướng dẫn và hỗ trợ về chuyên môn, nghiệp vụ cho tổ chức, đơn vị thuộc các huyện quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.
Đối với các ngành có liên quan:
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ và Ủy ban nhân dân các huyện đẩy mạnh hoạt động khoa học công nghệ cấp huyện, theo hướng tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh ứng dụng và chuyển giao công nghệ trực tiếp về cơ sở trên cơ sở phát huy lợi thế trên từng địa phương để phát triển kinh tế - xã hội./.








