Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
1. Bối cảnh tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Một là, sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta diễn ra trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển mạnh mẽ chưa từng có. Khoa học và công nghệ cùng với lượng tri thức tăng nhanh đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội. Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, làm dịch chuyển mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia và làm thay đổi sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hôi loài người.
Trong bối cảnh đó, Đại hội IX của Đảng nhận định: “Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Đại hội X chỉ rõ: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH”.
Có thể thấy, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đang phát triển như vũ bão đã tác động đến hầu hết các quốc gia. Điều này đặt ra cho quá trình CNH,HĐH nước ta trước những thách thức gay gắt, đồng thời cũng tạo ra những thách thức gay gắt, đồng thời cũng tạo ra những cơ hội lớn để có thể rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước. Không thể phủ nhận một thực tế là trình độ phát triển khoa học và công nghệ hiện nay của nước ta còn thấp so với trình độ chung của thế giới, lại càng thấp so với trình độ chung của thế giới, lại càng thấp xa hơn so với các nước công nghiệp phát triển. Trong khi đó, để CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức đòi hỏi phải ứng dụng nhanh chóng và có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến. Các thành tựu khoa học và công nghệ này sẽ được đảm bảo từ nguồn nào? Chuyển giao từ bên ngoài hay tự nghiên cứu để ứng dụng trong thực tế? Mỗi cách làm đều chứa đựng những yếu tố hợp lý và bất hợp lý. Để chọn cách làm phù hợp nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng “tụt hậu” xa hơn về kinh tế và thực hiện được yêu cầu “vượt lên trước” đòi hỏi cần phải kết hợp giữa tiếp nhận sự chuyển giao từ bên ngoài có cải biến cho phù hợp với thực tiễn nước ta với nghiên cứu sáng tạo ở trình độ hiện đại ở trong nước.
Hai là, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu trong kinh tế tự nhiên và phần nào đó trong kinh tế thị trường, sự phân công và trao đổi còn bị giới hạn bởi tính vùng, địa phương và quốc gia, thì trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, sự phân công và trao đổi được thực hiện thông qua mạng liên kết toàn cầu. Xu thế này tất yếu làm cho các nước xích lại gần nhau hơn trong hoạt động đầu tư và thương mại. Giờ đây các sản phẩm công nghệ được sản xuất ra phần lớn vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia cụ thể, hay nói cách khác là có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp thuộc các quốc gia khác nhau. Nói cách khác, biên giới quốc gia không bị giới hạn chặt chẽ như trước đây, mà xích lại gần nhau.
Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế phát triển ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng đang tạo ra những mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các nước, tạo ra khả năng và điều kiện để các nước tham gia vào phân công, hợp tác quốc tế. Điều đó cho phép các nước chậm phát triển như nước ta mở rộng quan hệ kinh tế với các nước tiên tiến trên thế giới để tranh thủ vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức quản lý, đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật… Có thể nói, đây là điều kiện rất quan trọng, nếu biết khai thác và sử dụng tốt các nguồn lực bên ngoài thì sẽ huy động được tối ưu mọi nguồn lực và lợi thế bên trong, tạo ra các tiền đề cần thiết cũng như các điều kiện có liên quan để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐN đất nước.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, về mặt thời đại, xu hướng chủ đạo là tiến lên kinh tế tri thức, bị chi phối bởi kinh tế tri thức như là một lực lượng quyết định sự phát triển. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, tất yếu phải nhanh chóng đi vào kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là đòn bẩy để phát triển.
Ba là, hơn hai mươi năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP ở mức khá cao. GDP bình quân đầu người tăng 1,8 lần. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong các thời gian 1996 - 2000 là 6,9%, 2001 - 2005 là 7,51%, cụ thể qua các năm gần đây như năm 2008 là 6,23%, năm 2009 là 5,32%.
- Nông nghiệp đã đi vào vòng chuyển dịch cơ cấu theo hướng CNH, HĐH. Giá trị xuất khẩu nông nghiệp giai đoạn 1999 - 2000 tăng bình quân 5,4%/năm, 2001 - 2010 tăng 5,7%. Công nghiệp phát triển liên tục với tốc độ khá cao (trên 10%/năm) thời kỳ 2001 - 2010, công nghiệp có bước chuyển biến tích cực về cơ cấu sản xuất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh. Dịch vụ phát triển đa dạng, giá trị các ngành dịch vụ tăng 7,6%/năm giai đoạn 2001 - 2010. Nhìn chung các ngành dịch vụ về cơ bản đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng kinh tế, đảm bảo mối liên hệ giữa sản xuất với tiêu dùng, phục vụ kịp thời nhu cầu đời sống nhân dân.
- Kết cấu hạ tầng được xây dựng mới, cải tạo và nâng cấp khá đồng bộ, nhất là hệ thống giao thông, mạng lưới bưu chính viễn thông, mạng lưới điện, hệ thống thủy lợi, đê điều, hệ thống cấp thoát nước cho các đô thị, khu công nghiệp, hệ thống trường học từ mẫu giáo, nhà trẻ đến đại học, các cơ sở y tế từ tuyến xã đến trung ương, hệ thống phát thanh truyền hình, nhà cho dân cư… đều được nâng cấp về chất lượng và đáp ứng nhu cầu cơ bản của dân cư.
- Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch tích cực theo hướng chú trọng khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế của đất nước. Đời sống vật chất và tinh thần nhân dân ở khắp các vùng trong cả nước đã được cải thiện rõ rệt. GDP đầu người tăng tương đối nhanh. Nếu như năm 2000 là 402,1 USD/người, năm 2005 là 637,3 USD/người thì đến nay đã trên 1.000 USD/người. Tình trạng đói nghèo giảm, những nhu cầu cơ bản và thiết yếu của dân cư được đảm bảo.
- Tình hình chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
2. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Trước khi xem xét nội dung CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức cần thiết làm rõ thêm một số vấn đều sau:
Thứ nhất, theo quan niệm của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa VII: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Có thể thấy, khái niệm CNH, HĐH trên đây được Đảng ta xác định rộng hơn quan niệm công nghiệp hóa trước kia, nó bao hàm cả lĩnh vực sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Có thể thấy, khái niệm CNH, HĐH trên đây được Đảng ta xác định rộng hơn quan niệm công nghiệp hóa trước kia, nó bao hàm cả lĩnh vực sản xuất, kinh doanh dịch vụ, quản lý kinh tế - xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện với các phương pháp tiên tiến, hiện đại cùng với kỹ thuật - công nghệ cao. Như vậy, với tư tưởng mới, CNH, HĐH không chỉ bó hẹp trong phạm vi các lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công lên lao động cơ khí như quan niệm trước đây.
Thứ hai, từ thập niên 80, thế kỷ XX lại đây, nền kinh tế thế giới chuyển mạnh sang phát triển kinh tế tri thức. Đây là một đặc trưng nổi bật của thời đại ngày nay. Thuật ngữ “kinh tế tri thức” được Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) chính thức dùng từ năm 1995, theo đó: “Kinh tế tri thức (knowledge economy) là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”.
Ở nước ta hiện nay, xét trên cả phương diện lý luận và thực tế, một số người vẫn còn xa lạ với phạm trù kinh tế tri thức. Song, trong cuộc sống thực tại, họ lại rất gần gũi với các sản phẩm hoặc công nghệ do tri thức hiện đại mang lại. Kinh tế tri thức tác động đến con người qua nhiều phương tiện (truyền hình, máy vi tính và Internet, công cụ sản xuất hoặc sản phẩm giải trí…). Những thành tựu của khoa học và tri thức hiện đại được ứng dụng nhanh chóng trong các trường học, viện nghiên cứu và được lớp trẻ tiếp cận nhanh chóng. Thuật ngữ kinh tế tri thức chính thức được sử dụng trong Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng, đó là một nền kinh tế có tỷ lệ hàm lượng chất xám cao, trong cơ cấu giá trị của hàng hóa thì chất xám chiếm tỷ lệ cao hơn. Theo Văn kiện Đại hội X của Đảng: “Kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp việc sử dụng tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại”. Điều đó cho thấy, kinh tế tri thức là một nền kinh tế phát triển theo chiều sâu, các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp… phát triển chủ yếu dựa vào tri thức. Kinh tế tri thức đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, nắm vững và làm chủ được khoa học - công nghệ và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến vào sản xuất.
Thứ ba, tại sao cần phải CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức? Việc từng bước phát triển kinh tế tri thức trong quá trình CNH, HĐH phải trở thành đường lối phát triển có tính chiến lược của nước ta. Điều này có nghĩa là, chúng ta vừa phải thực hiện những nhiệm vụ của CNH, HĐH vừa phải phát triển những yếu tố cơ bản ban đầu của kinh tế tri thức. Nói cách khác, thực hiện CNH, HĐH ở nước ta trong điều kiện phát triển mới không chỉ thuần túy là chuyển nền kinh tế nông nghiệp thành kinh tế công nghiệp, mà nền kinh tế sẽ được tạo lập đã có những yếu tố cơ bản của kinh tế tri thức. Đây chính là biểu hiện của việc kết hợp giữa bước đi tuần tự và bước nhảy vọt, giữa thực hiện mục tiêu thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu với mục tiêu tạo lập cơ sở phát triển kinh tế tri thức hiện đại ngay trong điều kiện hiện nay, không thể chờ hoàn thành công nghiệp hóa, xây dựng được kinh tế công nghiệp rồi mới chuyển sang kinh tế tri thức. Hai nhiệm vụ CNH, HĐH và từng bước phát triển kinh tế tri thức có quan hệ ràng buộc, hỗ trợ và thúc đẩy nhau. Có mạnh dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng thay đổi phương thức và đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH, thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020. Ngược lại, việc thực hiện các bước đi và mục tiêu của quá trình CNH, HĐH mới tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kể cả hạ tầng xã hội cho phát triển kinh tế tri thức, mới có điều kiện để đi thẳng vào kinh tế tri thức.
Như vậy, có thể hiểu rằng, đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là một phương thức công nghiệp hóa mới trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, của xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ.
Để tiến hành CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, thực hiện được chiến lược từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức, nước ta phải:
Một là, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn
- Xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái nhiệt đới với sản phẩm đa dạng, có chất lượng, năng suất và khả năng cạnh tranh cao, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ.
- Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là công nghiệp sinh học và công nghệ chế biến. Phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, các vùng chuyên môn hóa tập trung. Thúc đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn phù hợp với điều kiện từng vùng.
- Xây dựng nông thôn mới theo hướng dân chủ, công bằng, nông dân có cuộc sống no đủ, có đời sống văn hóa lành mạnh, có môi trường sạch. Để phát triển nông nghiệp dựa vào tri thức cần kết hợp ba yếu tố cơ bản sau: người nông dân có tri thức với các nhà khoa học và nhà công nghệ kỹ thuật cao.
Hai là, phát triển kinh tế vùng
- Phát triển một số vùng có khả năng tăng trưởng mạnh nhất, tạo động lực lan tỏa đến các vùng khác trong nước.
- Quy hoạch phát triển các vùng trọng điểm phải đặt trong quy hoạch phát triển tổng thể của cả nước và tạo các mối liên kết kinh tế cơ bản giữa các vùng và trong nội bộ từng vùng trên cơ sở phân công lao động, dựa vào lợi thế phát triển của mỗi vùng.
- Phát triển những vùng có thế mạnh tiềm năng tự nhiên. Đồng thời, có cơ chế chính sách để tạo điều kiện cho các vùng còn nhiều khó khăn phát triển, đặc biệt là vùng biên giới, hải đảo, các vùng của Tây Nguyên, Tây Nam và Tây Bắc.
Ba là, phát triển nhanh hơ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
- Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao (công nghệ chế tác, công nghiệp bổ trợ, công nghiệp phần mềm…) để có lợi cạnh tranh tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động.
- Tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển mạnh các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại.
- Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội bảo đảm thuận tiện, nhanh chóng, chính xác cho mọi mối quan hệ giao lưu trong hoạt động kinh tế và sự giao lưu giữa các thành phần xã hội, nhất là hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin - viễn thông có vai trò đặc biệt quan trọng với nền kinh tế tri thức.
- Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ cấp cao, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao, các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh.
Bốn là, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ
- Phát triển nguồn nhân lực là khâu quyết định của quá trình CNH, HĐH rút ngắn. Bởi vậy, chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải được xác định là nội dung trung tâm của phát triển bền vững. Phát triển nguồn nhân lực cần phải thực hiện theo hai hướng; phát triển con người và hiện đại hóa khâu giáo dục - đào tạo.
- Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và kinh tế tri thức. Chú ý đi ngay từ đầu vào công nghệ hiện đại với các lĩnh vực then chốt và từng bước mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, chú trọng đúng mức việc phát triển công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm.
3. Những tiền đề, điều kiện để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Thứ nhất, phải có sự ổn định về chính trị - xã hội. Đây là tiền đề và điều kiện quan trọng để phát triển của mọi quốc gia, nhất là đối với những nước trải qua nhiều năm chiến tranh như nước ta thì rất cần sự ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, để thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Một mặt, chúng ta phải nâng cao cảnh giác, chống mọi âm mưu diễn biến hòa bình, mặt khác, xây dựng chính quyền từ trung ương đến địa phương vững mạnh, thật sự là chính quyền của dân, do dân, vì dân, tạo sự đoàn kết nhất trí, sự đồng thuận trong xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ hai, tích lũy vốn trên cơ sở phát huy nội lực và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài. Sự nghiệp CNH, HĐH nước ta tiến hành nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào quá trình tích lũy vốn. Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích lũy vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lý hóa sản xuất. Ngoài ra, cần phải mở rộng nhiều hình thức thu hút vốn nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Triệt để tiết kiệm, coi “tiết kiệm là quốc sách”, đấu tranh triệt để với nạn tham nhũng, lãng phí. Xây dựng chính sách kinh tế phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn phát triển là yêu cầu khách quan. Còn đối với nguồn vốn từ bên ngoài, cần huy động dưới các hình thức: kêu gọi viện trợ, đầu tư, vay vốn ngắn hạn, dài hạn, kêu gọi vốn kiều hối…
Thứ ba, đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề. Trước hết, phải đổi mới nhận thức, tư duy mới về đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học và truyền bá tri thức mới. Hoàn thiện chính sách sử dụng cán bộ khoa học, lấy chất lượng và kết quả hoạt động nghiên cứu, đóng góp khoa học là thước đo, là tiêu chuẩn căn bản cho mọi chế độ cất nhấc, đề bạt, khen thưởng, đãi ngộ vật chất. Tổ chức lại một cách căn bản hệ thống đào tạo, rà soát lại cơ cấu đào tạo cho hợp lý, nghiên cứu đồng bộ các phương pháp dạy và học, phương pháp đánh giá kết quả học tập của học viên, nhằm thực hiện mục tiêu chuyển trọng tâm giáo dục từ trang bị kiến thức sang rèn luyện phương pháp, xây dựng năng lực, phát triển khả năng sáng tạo. Tăng cường đào tạo lại theo chuyên đề của các chuyên ngành để cập nhật thông tin, kiến thức mới cho kịp với trình độ thế giới và khu vực.
Thứ tư, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của khoa học và công nghệ. Để làm được điều này, cần chú trọng các lĩnh vực khoa học và công nghệ trọng điểm gắn với kinh tế tri thức như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ gia công tiên tiến trong cơ khí, công nghệ chế biến… Thực hiện các biện pháp nhằm làm tốt hơn công tác chuyển giao công nghệ và tăng cường tác dụng của chuyển giao công nghệ tới phát triển kinh tế tri thức. Tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ nhằm khuyến khích sáng tạo và phổ biến tri thức. Chú trọng đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật có khả năng nghiên cứu và ứng dụng một cách sáng tạo các kết quả chuyển giao công nghệ, đồng thời nghiên cứu những vấn đề đặc thù cho phù hợp với điều kiện Việt Nam . Nhà nước cần hỗ trợ các cá nhân và tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ về cơ sở thông tin, bảo hộ quyền lợi, tư vấn pháp luật, nhất là những lĩnh vực có liên quan đến quan hệ với nước ngoài nhằm bảo đảm lợi ích của họ.
Thứ năm, xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển. Công nghệ thông tin là chìa khóa để đi vào nền kinh tế tri thức. Song, muốn công nghệ thông tin nhanh chóng phát huy hiệu quả thì cần phải xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng kỹ thuật đến đội ngũ cán bộ vận hành, sử dụng công nghệ thông tin. Muốn rút ngắn thời gian CNH, HĐH và từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức và rút ngắn khoảng cách về công nghệ thông tin của nước ta với các nước trong khu vực và thế giới, nhà nước phải có chiến lược phát triển công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử và phát triển đồng bộ hạ tầng kỹ thuật thông tin để có thể khai thác sử dụng được thiết bị công nghệ cao của thế giới. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ khoa học.
Thứ sáu, mở rộng hợp tác quốc tế được coi là một trong những điều kiện quan trọng để từng bước phát triển kinh tế tri thức, thực hiện nhanh và có hiệu quả nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Cụ thể là:
- Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ. Nội dung hợp tác cần được định hướng vào hai loại chủ đề: những vấn đề khoa học và công nghệ có tính bức xúc đặt ra trong ngắn hạn; những vấn đề khoa học và công nghệ có tầm tác động chiến lược dài hạn. Từ định hướng này, phía Việt Nam cần chủ động tìm kiếm đối tác có thực lực và có thiện chí, thương thảo hình thức và điều kiện hợp tác nghiên cứu.
- Hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực. Loại ngành nghề cần được tập trung trong hợp tác quốc tế đào tạo là những ngành nghề mà việc phát triển kinh tế tri thức đặt ra. Nhà nước cần định hướng ngành nghề và cấp đào tạo, xác định những địa chỉ có uy tín về khoa học và công nghệ để gửi người đi đào tạo, lựa chọn người có đủ năng lực và phẩm chất đi đào tạo ở nước ngoài, có chính sách thỏa đáng cho hợp tác quốc tế trong đào tạo, phòng ngừa và ngăn chặn tình trạng “chảy máu chất xám”.
- Hợp tác trong lĩnh vực thương mại quốc tế về khoa học và công nghệ. Đó là tăng cường nhập khẩu trí thức, nhập khẩu tri thức, nhập khẩu vật tư kỹ thuật có trình độ cao.
Tóm lại, muốn rút ngắn quá trình CNH, HĐH thì phải nắm bắt, khai thác, sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại và những yếu tố của nền kinh tế tri thức. Muốn rút ngắn phải tăng tốc, đi tắt, đón đầu, bỏ qua lối mòn mà các nước đã phải vất vả vượt qua, quan điểm đó có điều kiện thực hiện khi tri thức đã mang tính toàn cầu. Chủ trương của Đảng ta đẩy mạnh CNH, HĐH và từng bước vững chắc chuyển sang nền kinh tế tri thức là có căn cứ khoa học, phù hợp với xu thế chung của thời đại, nhưng chỉ thành công khi hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời, lồng ghép vào nhau, bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau, bằng cách tăng cường đào tạo, sử dụng, khuyến khích, tăng nhanh tiềm năng tri thức quốc gia và đầu tư vào các ngành công nghệ kỹ thuật cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức.








