Dấu vết nền văn hoá Óc Eo
Phù Nam là tên Hán hoá mà sử Tàu gọi Vương quốc này. Thực chất, chữ dùng của họ là chữ Phạn cổ (Sankrit) được lưu lại trên các hiện vật khai quật, và ngành chức năng nước ta đã gửi mẫu chữ qua Ấn Độ mã hoá nhưng chưa có hồi âm. Từ năm 1944, văn hoá Óc Eo đã được nhà khảo cổ người Pháp Malleret phát hiện và khai quật. Sau đó vì chiến tranh, Malleret phải bỏ dở công trình khai quật. Vào năm 1994, tại Paris, Viện Viễn Đông Bác Cổ của Pháp đã tổ chức kỷ niệm 50 năm Malleret tìm ra di chỉ Óc Eo. Trong khi đó ở ta thì…
Bình đồ mà Malleret để lại, chỉ riêng cánh đồng Ba Thê đã có hơn 30 điểm di chỉ Óc Eo, mà trung tâm, cho đến nay được xem là Hoàng cung của Vương Quốc Phù Nam là khu vực chùa Linh Sơn ở triền núi Ba Thê. Nơi này trước đây - theo lời anh Mã Văn Bạch, người Việt gốc Hoa ở chợ Ba Thê - gia đình định cư ở đây đã 4 đời, thì chùa Linh Sơn trước kia làm bằng tre lá do ông đạo Tranh cất trên nền một ngôi đền Phù Nam đã sụp đổ. Các nhà khảo cổ cũng xác nhận: Toàn bộ gạch xây chùa Linh Sơn ngày nay đều là gạch Phù Nam. Ông đạo Tranh đã đào được rất nhiều hiện vật quý giá trong khuôn viên chùa. Tượng Phật 4 tay đang thờ trong chùa cũng là di chỉ Óc Eo. Tại đây còn có 2 tấm bia chữ Phạn chưa giải mã được. Các gò Cây Thị, Cây Tôm, gò Đế, Giồng Cát, Óc Eo nằm gần nhau thì trước đây là khu vực đào vàng của dân tứ xứ đổ về, có lúc lên tới hơn 2.000 người tạo nên cơn sốt làm cho chính quyền và ngành công an tỉnh vất vả nhưng không sao dẹp được. Dân đào vàng đã lấy đi nhiều cổ vật quý. Anh Khưu Văn Hoàng ở ấp Trung Sơn (Ba Thê) người từng tham gia đào vàng đã bị dân đào vàng xới tung thửa ruộng hơn 1 ha của mình, cho biết: khi thu lượm hết vàng, chế tác, vàng miếng, người ta đãi mạt vàng lẫn trong đất cát. Như vậy, rất có thể nơi này ngày xưa còn là khu vực thủ công mỹ nghệ chuyên chế tác vàng của thành phố (?).
Di chỉ Óc Eo khai quật tiêu biểu có 3 loại kiến trúc: đền đài, mộ táng và cư trú. Từ trước đến nay đã có hơn 200 đoàn trong, ngoài nước đến khảo sát khai quật. Mùa khai quật năm 1999, trong khuôn khổ hợp tác giao lưu văn hoá với Pháp, đoàn khảo cổ của Viện Viễn Đông Bác Cổ đã đến khai quật kiến trúc đền đài gò Cây Thị. Cùng đi với đoàn lần này có một chuyên viên về bào tử phấn hoa. Đây là lĩnh vực nghiên cứu mới của ngành khảo cổ nước ta. Thông qua những bào tử phấn hoa thu nhặt được, qua nghiên cứu người ta có thể đoán được về môi trường, sinh hoạt, ẩm thực của người xưa. Tại gò Cây Thị, sau khi đoàn Pháp về, bàn giao lại cho đoàn khảo cổ Viện Khoa học xã hội TP Hồ Chí Minh, Thạc sĩ Nguyễn Văn Khảm - phó đoàn, cho biết: Di chỉ đang khai quật là một đền đài hình chữ nhật, kiến trúc mới lạ lần đầu tiên tìm thấy trong quần thể các di chỉ Óc Eo. Ngôi đền có chiều ngang 22m, dài 23,3m, phía sau đền có 4 hộc hình vuông, mỗi cạnh 10m, dưới có gạch xây kiên cố. Trước đây, nơi này các bệ gạch vẫn còn nhô cao khỏi mặt đất cả thước, nhưng do không được bảo quản, mùa nước dân đến gỡ gạch chở về làm nhà! Đặc biệt, khi khai quật đến độ sâu 4m ở gò Cây Thị, các nhà khảo cổ còn phát hiện một lớp cư trú cũ.
Hồi tháng 4-1998, tại khu vực chùa Linh Sơn, các nhà khảo cổ cũng phát hiện một kiến trúc đền đài, do không có kinh phí bảo quản nên nghiên cứu xong phải lấp lại. Các gò xung quanh gò Cây Thị được nhận định là di chỉ mộ táng người ta có thể biết được sự phân chia giai cấp của người xưa. Riêng gò Óc Eo chủ yếu là hiện vật với đủ thứ chất liệu và vật dụng. Nhiều nhất là tượng và nồi đất (giống như om của người Khmer).
Qua sử sách và những gì còn nằm lại trong lòng đất, các nhà khảo cổ nhận định rằng: Phù Nam là nhà nước đầu tiên ở Đông Nam Á với nền văn minh rực rỡ, tồn tại từ thế kỷ thứ VII sau công nguyên. Sau 300 năm chinh chiến với Angkor, Phù Nam bị thôn tính. Nhưng một điều kỳ lạ là những nền văn minh mất đi thì dân tộc của nó vẫn còn, với Phù Nam thì dân tộc cũng biến mất. Họ bị xua đi, bị đồng hoá hay bị diệt chủng? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời chính xác, trong khi đây là một quốc gia rất rộng lớn và hùng cường. Một điểm nữa là Phù Nam không ản hưởng văn hoá Hán mà lại ảnh hưởng sâu đậm văn hoá Ấn Độ với quốc giáo là Bà La Môn. Khu vực đồng bằng sông Cửu Long có hơn 100 di chỉ văn hoá Óc Eo nhưng hiện mới khai quật được 30 điểm. Ba Thê được xem là kinh đô thứ hai - thành phố thương mại, hải cảng của Phù Nam.
Bản đồ du lịch thế giới có địa chỉ Óc Eo, nhưng từ trước tới nay khách trong và ngoài nước tham quan di chỉ Óc Eo đều phải ghé Đồng Tháp hay Long An, nơi những di chỉ được khai quật phục vụ lịch sử, du lịch chứ không lấp lại như An Giang. Đến năm 1999, tỉnh An Giang có chủ trương quy hoạch bảo tồn di tích, trước mắt là hai di chỉ cùa Linh Sơn và gò Cây Thị. Khu di tích Linh Sơn tự quy hoạch 20 ha nằm trên cánh đồng phía đông núi lớn, tổng kinh phí dự toán gần 200 triệu đồng.
Đến nay, khu du lịch - văn hoá Óc Eo đã được Trung tâm Khảo cổ thuộc Viện Khoa học xã hội TP Hồ Chí Minh khai quật xong tại 2 điểm: gò Cây Thị và Nam Linh Sơn tự thuộc xã Vọng Thê. Thực hiện đầu tư năm 1999, huyện Thoại Sơn đã hoàn thành việc xây bờ kè, hàng rào, mái che bảo quản tạm và đã hợp đồng 2 nhóm bảo vệ giữ gìn di tích. Đồng thời huyện đã hợp đồng với Công ty Tu bổ di tích và thiết bị văn hoá Trung ương lập quy hoạch chi tiết khu du lịch văn hoá Óc Eo với tổng diện tích 70ha (Nam Linh Sơn tự 20ha, quần thể gò Cây Thị 50ha).
Sau 1.500 năm chìm vào cát bụi, nền văn minh Phù Nam được đánh thức. Ông Nguyễn Văn Khảm - Giám đốc Trung tâm văn hoá Thoại Sơn khẳng định: Với cụm di chỉ liên quan từ Linh Sơn tự, Óc Eo, gò Cây Thị, gò Cây Tôm, gò Đế, Giồng Cát và các dạng di chỉ đền đài, mộ táng, cư trú, hiện vật khai quật hoàn tất nếu được đầu tư, tỉnh An Giang sẽ có một “làng Óc Eo” phục vụ nghiên cứu của lịch sử và du lịch.
Nguồn: Xưa và Nay, số 75, tháng 5/2000, tr 30, 31








