Đặt lại vấn đề thời điểm ra đời của Văn Miếu
Theo PGS. TS. Sử học Tạ Ngọc Liễn qua bài viết “Về ý kiến “Thếkỷ XI chưa có văn miếu” của tiếnsĩ A.B. Policốp”[Văn nghệ,số 50 ngày 12-12-2009] thì “Thực ra quan điểm “Văn Miếu chưa thể xuất hiện ở Đại Việt” đã được A.B.Policốp đưa ra cách đây 20 năm, trong một bài báo gửi tới tạp chíNghiên cứu Lịch sử(TCNCLS) nhưng TCNCLS không đăng và có mời A.B. Policốp, lúc đó ông đang công tác ở Đại sứ quán Liên Xô tại Việt Nam, đến để trao đổi vì sao tạp chí không đăng, mà lý do chính là nội dung bài báo không đủ sức thuyết phục về mặt khoa học, thậm chí có sai sót về tri thức, thí dụ tác giả hiểu Văn Miếu là Miếu Văn chương...” thế nhưng điều ngạc nhiên là quan điểm cũ này lại bỗng nhiên trở thành điểm nóng sau 20 năm! Đến nỗi “Nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam không đồng tình với TS. Polyakov, riêng GS. Phan Huy Lê cho rằng, cả haiquan điểm của TS. Polyakov cầnđược tiếp nhận với thái độ cởi mở, còn để khẳng định đúng sai thì cần tiếp tục được nghiên cứu... Gói gọn trong một ngày nên như GS. Lê tổng kết, nhiều học giả cảm thấy “thòm thèm” vì chưa đủ thời gian thảo luận thêm để không chỉ thống nhất những khác biệt, mà còn mở ra những vấn đề mới cần nghiên cứu tiếp” [theoVietNamNet - Thế kỷ XI chưa có Văn Miếu - Quốc Tử Giám].Như vậy người đầu tiên hoài nghi thời điểm ra đời của Văn Miếu - Quốc Tử Giám chính là một người nước ngoài, Polyakov, cũng theo Tạ Ngọc Liễn (Bđd), lý lẽ chính yếu của ông là dựa vàoViệt sử lược(VSL) không ghi chép gì về tên gọi “Văn Miếu” nhưĐại Việt sử ký toàn thư,Văn Miếu là danh xưng chỉ có vào đời Minh (Trung Quốc) và thời Lý rất sùng mộ Phật giáo, Nho giáo không thể phát triển trong bối cảnh này nên vào thế kỷ XI, Văn Miếu chưa thể xuất hiện vào triều Lý, Văn Miếu được ĐVSKTT ghi nhận chỉ là một ngụy tạo và cho đến nay có lẽ chỉ một mình Tạ Ngọc Liễn là có ý kiến phản bác mạnh mẽ qua bài viết trên, songhìnhnhư chưa có sức thuyết phục cao và chỉ mới dừng lại ở thời điểm nhà Lý chứ chưa tìm hiểu sâu xa hơn.
Sự thật thì vào thế kỷ XI, Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã được nhà Lý xây dựng chưa? Bài viếtnày không có ý định phê bình trựctiếp các bài viết của Polyakov vàTạ Ngọc Liễn (chỉ đôi khi nhắc đến vì liên quan đến vấn đề) mà chỉ là những cố gắng tìm hiểu, suy nghĩ về vấn đề này qua sự kiện “nóng” về Văn Miếu đã diễn ra nhằm đưa ra ánh sáng sự thật về thời điểm ra đời của Văn Miếu - Quốc TửGiám sau khi đã khảo sát các sửliệu xưa nhất còn lại và cũng thật bất ngờ, chúng tôi đã phát hiện ra một sự thật ẩn giấu suốt bao thế kỷ đã qua đi! Phát hiện mới này có khả năng làm đảo lộn, phủ nhận một định kiến, ngộ nhận xưa nay về thời điểm ra đời của Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Văn Miếu là gi?
Văn Miếu, theo các từ điển Trung Quốc nhưTử nguyên, Từ hải, Hán ngữ đại tự điển...thì nói chung đều cho tên gọi Văn Miếu xuất hiện vào thời nhà Nguyên, Minh; vì trước đó đời Đường đã từng gọi Khổng Miếu là Văn Tuyên Vương Miếu, nên mới gọi tắt là Văn Miếu và dùng chữ “Văn” để đối lại, phân biệt với chữ “Vũ” trong Vũ Miếu - miếu thờ Quan công. Nói chung các từ điển trên đều cho Văn Miếu chính là tên gọi khác của Văn Tuyên Vương Miếu (Khổng Miếu). Còn theo các từ điển Việt Nam thì cũng không khác gì, chẳng hạn như trongĐại Nam quốc âm tự vị(1895-1896), Huỳnh Tịnh Của đã ghi nhận: Miếu, Văn Thánh Miếu: miếu thờ đức Khổng Tử hayHán Việt từ điển(1932) của Đào Duy Anh cũng định nghĩa Văn Miếu: Miếu thờ Khổng Tử do nhà nước dựng lên. Vậy thì đã rõ, Văn Miếu là đền, miếu thờ Khổng Tử, nhưng cách giải thích trên chỉ chú trọng đến mục đích chung của Văn Miếu là nơi thờ tự nhưng lại không chú ý đến chữ “Văn”, ngoài sự thờ tự Khổng Tử ra, Văn Miếu còn là nơi tập trung, học tập, phát huy, tưởng niệm về “Văn”: bao gồm học vấn giáo dục, lễ nhạc, văn hiến Nho giáo... (Chú ý: “Văn” không nên hiểu đơn giản chỉ là văn chương, theoHán Việt tự điển(1942) của Thiều Chửu: Văn, cái dấu vết do đạo đức lễ nhạc giáo hóa mà có vẻ đẹp đẽ rõ rệt gọi là văn, như văn minh, văn hóa) nên mói có thêm nào là Khuê Văn Các, Quốc Tử Giám (như Văn Miếu Hà Nội). TrongVân Đài loại ngữ - Vựng điển loạiLê Quý Đôn đã chép: “18. Văn miếu nhà Minh: Tứ phối: Nhan Uyên, Tử Tư (bên tả), Tăng Sâm, Mạnh Kha (hữu). 19. Minh Thế Tông lập đền Khải thánh ở bên trái học miếu để thờ cha mẹ Khổng Khâu, cùng các hiền nho như Nhan Uyên, Tăng Sâm v.v. 20. Từ đời nhà Đường, nhà Tống mở nhà học khắp nơi; nhưng văn miếu có qui chế riêng” [bản dịch Phạm Vũ và Lê Hiền, Sài Gòn, 1973 (tr. 190-191)]. Vậy Văn Miếu có thể hiểu như một quy mô kiến trúc bao gồm sự thờ kính Khổng Tử lẫn sự tôn vinh “Văn” của Nho giáo. Tóm lại, Văn Miếu (Văn Tuyên Vương Miếu) theo nghĩa chính là đền, miếu thờ kính Khổng Tử và có thể hiểu rộng thêm ngoài sự thờ tự Khổng Tử ra còn là nơi tưởng niệm, học hành và phát huy đạo lý Thánh Hiền nên ở Trung Quốc cũng như Việt Nam xưa, Văn Miếu thường là một kiến trúc bao gồm Miếu: nơi tế tự Khổng Tử và Văn: (trường) Quốc Tử Giám.
Văn Miếu và Quốc Tử Giám theo sử liệu xưa
Việt sứ lượclà một tác phẩm sử học khuyết danh - xưa nhất hiện còn lại, viết vào khoảng đời Trần - đã từng ghi chép vào năm Bính Tý (1156) triều Lý Anh Tông như sau: "Mùa Đông, tháng 10, xây dựng hành cung Quốc Oai và đền thờ Khổng Tử” và còn tìm thấy thêm một đoạn liên quan đến Văn Miếu nữa cũng ở triều Lý Anh Tông vào nămTânMão (năm 1171): Tu sửa Văn Tuyên Vương Miếu (Khổng Miếu) [bản chữ Hán ký hiệu VHV1521, Viện Nghiên cứu Hán Nôm theoViệt sử lược,Trần Quốc Vượng (dịch và chú giải), Nxb Thuận Hóa - Trung tâm Văn hóa Đông Tây, 2005]. QuaViệt sử lượcta thấy dường như chỉ ghi chép về một kiến trúc cỡ nhỏ và chỉ có mục đích chính là dùng để thờ kính Khổng Tử chứ không mô tả như một kiến trúc lớn bao gồm vừa là nơi thờ tự vừa là nơi học hành (Khổng Miếu và Quốc Tử Giám) và nếu theo góc độ này A. Polyakov sẽ phần nào đúng khi không công nhận thế kỷ XI đã có Văn Miếu nhưng chỉ có miếu, đền thờ Khổng (hiểu theo nghĩa trên) [Xem thêm trongVai trò của Nho giáo ở Đại Việt thời Hậu Lý Sơ (1010-1127),A. Polyakov, Hội thảo quốc tế về Nho giáo ở Việt Nam 2007,(http://www.hannom.org.vn/default.asp?CatID=6)1.
Nhưng nếu hiểu Khổng Tử Từ = Văn Tuyên Vương Miếu = Văn Miếu (như đã trình bày ở trên) thì ngược lại cũng có thể cho rằng thế kỷ XI, nhà Lý đã từng xây dựng một đền thờ Khổng Tử hay nói cách khác là Văn Miếu. Sự tranh cãi, khác biệt chẳng qua là do khái niệm về “Văn Miếu”, như theo Polyakov thì thế kỷ XI chưa thể có mô hình Văn Miếu vì: “Thuật ngữ “Văn miếu” có thể sử dụng được đối với Khổng miếu Thăng Long chỉ vào thời nhà Lê, bắt đầu từ thế kỷ XV” [Bđd]. Quan điểm này tỏ vẻ cực đoan, máy móc vì thực ra soạn giả của ĐVSKTT chỉ dùng danh xưng phổ biến đương thời là “Văn Miếu” để nói về một mô hình bao gồm: đền thờ Khổng Tử và cũng là trường học cho hoàng tử, mô hình này không khác gì Văn Miếu đời Minh chứ không phải là soạn giả ĐVSKTT khẳng định vào đời Lý đã xuất hiện Văn Miếu (thuộc đời Minh)! Còn theo Tạ Ngọc Liễn thì khẳng định nhà Lý đã từng xây dựng Văn Miếu, một cách gọi khác của Văn Tuyên Vương Miếu (Khổng Miếu) vào thời Minh - Lê xét ra cũng không có gì sai lầm. SauViệt sử lược,đếnĐại Việt sử ký toàn thư -bộ sử được biên soạn vào triều Lê do sử thần Ngô Sĩ Liên chấp bút vâng theo ý chỉ của vua Lê Thánh Tông đã từng ghi chép như sau vào triều Lý Thánh Tông năm 1070: “Mùa thu tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng, Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học”. [Bản dịch của Viện KHXH 1985-1993, Nxb KHXH Hà Nội, 1993]. Nhưng có lẽ cần phải thẩm định lại đoạn văn dịch trên đây, theo nguyên bản chữ Hán. Bản in còn lưu lại là bản inNội Các Quan Bản,mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) - có lẽ chỉ là bản khắc lại bản Chính Hòa 18 - trang 5a thấy chép như sau:
“Thu, bát nguyệt, tu Văn Miếu, tố Khổng Tử, Chu Công cập tứ phối tượng, họa thất thập nhị hiền tượng, tứ thời hưởng tự”, như vậy thật rõ ràng về mặt dịch thuật có sự lầm lẫn về từ ngữ. Tu Văn Miếu làm sao có thể dịch là “làm Văn Miếu” được! Chữ Hán Tu ( ) là sửa chứ không phải là làm, theoHán Việt tự điểncủa Thiều Chửu: Tu: Sửa, sửa cho hay tốt gọi là tu. Như tu thân sửa mình, tu lý cung thất sửa sang nhà cửa, vậy Tu không hề có nghĩa là làm! Có lẽ nhóm dịch giả đã bị “tiềm thức” ám ảnh bởi định kiến “Văn Miếu lần đầu tiên được xây dựng vào triều Lý Thánh Tông” nên mới cố ý dùng chữ “làm” như muốn tránh từ ngữ “tu sửa” để dịch chữ Tu một cách mơ hồ, lạ tai đến thế, vì trong tiếng Việt xưa nay không ai nói “làm” Văn Miếu mà chỉ nói “xây” hay “dựng” Văn Miếu. Vậy chỉ có thể dịch là tu sửa, sửa sang Văn Miếu. Trong bộLược sửViệtNamcủa Vũ Ngự Chiêu, phần ghi chú đã viết như sau:Đại Việt sử ký tiền biên,1997:238: chép là “sửa Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công, và tứ phối [Nhan Uyên, Tăng Sâm, Mạnh Kha, Khổng Cáp]”.
Giáo sư Nguyễn Tài Thư có lẽ là người đầu tiên đã phát hiện ra chữ Tu ( ) đồng nghĩa với chữ Tu () là sửa sang trong ĐVSKTT nên GS đã hiểu là “sửa sang Văn Miếu” và cho Văn Miếu đã xuất hiện trước đó từ lâu[Nho học Việt Nam đầu thời kỳ độc lập và thời điểm thành lập Văn miếu ở Thăng Long, Nho giáo ở Việt Nam,Nxb Khoa học Xã hội (kỷ yếu hội thảo quốc tế). Viện nghiên cứu Hán Nôm, Viện Harvard-Yenching, Hà Nội, 2006]. Thật quá bất ngờ, ĐVSKTT không bao giờ khẳng định là vào năm 1070 Văn Miếu lần đầu tiên được xây dựng như mọi người vẫn hằng tin tưởng và khẳng định bấy lâu nay. ĐVSKTT theo nguyên văn chữ Hán chỉ ghi chép một sự thật là vào năm 1070, vua Lý Thánh Tông cho sửa sang lại một đền thờ Khổng Tử, đã được xây dựng trước đó và thật hiển nhiên theo sử thần Ngô Sĩ Liên - đúng ra là vua quan nhà Lê - thì Khổng Miếu đã xuất hiện trước thế kỷ XI! Ớ đoạn văn quan trọng này, tên gọi “Văn Miếu” lần đầu tiên được sử dụng trong ĐVSKTT khi ghi chép về sự kiện “trùng tu” một đền thờ Khổng Tử đã từng được xây dựng vào các triều đại trước nhà Lý, cũng chính trong đợt tu bổ này, đền thờ Khổng Tử đã được mở rộng thêm như ĐVSKTT đã chép: “Hoàng thái tử đến đấy học”, hướng đến sự nghiệp giáo dục các hoàng thái tử và về sau cũng theo bộ sử này chính nơi đây sẽ thu nhận thêm các quan lại có học vấn (biết chữ). Như vậy ở triều Lý, vua Lý Thánh Tông đã lần đầu tiên cho tu sửa lại đền thờ Khổng theo mô hình mới: thờ Khổng + trường Quốc học thì hiển nhiên không còn là một Khổng Miếu thuần túy với mục đích tế tự Khổng Tử nữa. Bắt đầu từ đây đã trở thành mô hình kiến trúc văn hóa giống như Văn Miếu thời Minh.
Cũng trong ĐVSKTT vào năm 1156 chép: Xây dựng Khổng miếu, như vậy theo quan điểm, cách dùng chữ của ĐVSKTT không phải hễ nói đến đền thờ Khổng Tử là đều dùng hai chữ “Văn Miếu”, ĐVSKTT chỉ dùng thuật ngữ Văn Miếu một cách trang trọng cho triều Lý Thánh Tông, nghĩa là chỉ vào năm 1070, Văn Miếu được tu bổ lại từ một đền thờ Khổng Tử (Khổng Tử Từ, Văn Tuyên Vương Miếu) chứ không phải là lần đầu tiên được xây dựng, còn đến năm 1156, Lý Anh Tông đã cho xây dựng một đền thờ riêng cho Khổng Tử (không thờ Chu Công...) nên mói gọi là Khổng Tử Miếu. Nếu tin vào ĐVSKTT, thật ra xét về thư tịch hay các bằng chứng di vật văn hóa... trong tình hình hiện nay không có một chứng cứ nào trái ngược với sự ghi chép về Văn Miếu như ĐVSKTT nên ta không thể hoài nghi gì, thật quá rõ không phải chỉ đến đời Lý Thánh Tông mới có Khổng Miếu nhưng trước đời Lý đã từng có một đền thờ Khổng Tử rồi và từ thời nào thì sử sách còn lại không nói đến.
Còn theo nhãn quan củaKhâm định Việt sử thông giám cươngmục (KĐVSTGCM) (Quốc sử quán triều Nguyễn) đã ghi chép về năm 1070 như sau: Tháng 8, mùa thu. Mới lập nhà Văn Miếu [Bản in năm Kiến Phúc 1884] và đến năm 1156, chép: “Lập miếu thờ Khổng Tử. Hồi đầu đời Lý, Văn Miếu thờ chung cả Chu Công và Khổng Tử; đến đây, Tô Hiến Thành xin lập miếu riêng để thờ Khổng Tử, nhà vua y nghe theo lời: lập miếu Khổng Tử ởphía Nam thành Thăng Long” [Bản dịch Viện Sử học (1957-1960), Nhà xuất bản Giáo dục (Hà Nội) ấn hành, 1998]. Nếu thế thì chính KĐVSTGCM đã là nguyên nhân dẫn đến cách hiểu sai lạc về sự khai sinh của Văn Miếu khi sử gia nhà Nguyễn hạ bút viết “Lập Văn Miếu”. Đây chính là sự sai lầm lần đầu tiên của sử học Việt Nam sau ĐVSKTT dẫn đến một định kiến, ngộ nhận xưa nay về sự khai sinh của Văn Miếu Việt Nam trong lịch sử, chẳng hạn có thể kể ra trongViệt Nam phong tục[Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin tái bản, Hà Nội, 2003], học giả Phan Kế Bính đã viết vào năm 1915: “Đến đời vua Lý Thánh Tông, nhà Lý mớilập Văn Miếu, tức đền Giám Hà Nội bây giờ”. Học giả Trần Trọng Kim trongViệt Nam sử lượcvào năm 1919 [Trung tâm học liệu in lần thứ nhất vào năm 1971] đã viết: “Ngài lại có ý muốn khai-hóa sự văn-học, lập văn-miếu, làm tượng Chu-công Khổng-tử và 72 tiên-hiền để thờ. Nước ta có văn- miếu thờ Khổng-tử và chư hiền khởi đầu từ đấy”, rồi tiếp đếnViệt Nam văn hóa sử cương(1938),Lịch sử Việt Nam(1955-1957) của học giả Đào Duy Anh và các sách liên quan sử học của các học giả, sử gia khác về sau, kể cả trong và ngoài nước Việt Nam, cũng không tránh khỏi định kiến trên.
Cho đến tận hôm nay, định kiến này vẫn được truyền bá, giảng dạy không một ai hoài nghi cho nên không lạ gì có sự phản ứng phủ nhận “cái mới” từ 20 năm qua như số phận của ý kiến cho rằng thế kỷ XI chưa có Văn Miếu - Quốc Tử Giám do Polyakov đặt ra rồi cuối cùng đã trở thành “điểm nóng” trong giới nghiên cứu sử học Việt Nam. Sau ĐVSKTT chính Ngô Thời Sĩ trongViệt sử tiêu án-soạn năm 1775 - đã từng ghi chép: “(Lý Thánh Tông): Vua sai sửa sang Văn Miếu, tô tượng Khổng Tử và Chu Công, thờ cúng đủ bốn mùa” [Bản dịch của Hội liên lạc nghiên cứu Văn hóa Á Châu năm 1960] (tôi chưa tìm ra bản chữ Hán nhưng qua lời dịch “sửa sang Văn Miếu” chắc chắn là chữ Tu Văn Miếu chứng tỏ Ngô Thời Sĩ đã đọc ĐVSKTT một cách chính xác) để nhận thức được rằng: Văn Miếu đã được tu bổ, sửa sang lại theo chính sử (ĐVSKTT) vào năm 1070 triều vua Lý Thánh Tông chứ hoàn toàn không phải là: Văn Miếu lần đầu tiên được xây dựng vào năm 1070 ởthời Lý như KĐVSTGCM và sau này qua sách sử, giáo khoa khác.
Qua những khảo sát trên, ta thấy cần phải xem xét, hiểu lại vấn đề khai sinh của Văn Miếu cho được minh bạch. Nếu tin vào VSL (... Xây dựng hành cung Quốc Oai và đền thờ Khổng Tử), thì đời Lý Anh Tông, năm 1156 đã từng xuất hiện một đền thờ Khổng Tử và nếu hiểu “Khổng Tử Từ” chính là Văn Miếu (nói theo thuật ngữ đời Minh - Lê) thì sớm nhất có thể ghi nhận dấu mốc niên đại của Văn Miếu là năm 1156 và chứng tỏ vào thế kỷ XI, nhà Lý đã có Khổng Miếu hay Văn Miếu. Nhưng có lẽ cần phải bàn thêm về đoạn ghi chép súc tích trong VSL "... Khởi Quốc Oai hành cung cập Khổng Tử Từ”, ở đây là nói về sự kiện xây dựng hành cung ở Quốc Oai (Hà Tây) và cùng lúc xây luôn một đền thờ Khổng Tử cũng có thể hiểu là xây dựng ởQuốc Oai (Hà Tây) chứ không phải là ở hoàng cung Thăng Long - Hà Nội hiện nay có di tích Văn Miếu và cũng không thể khẳng định là Khổng Miếu được xây dựng lần đầu tiên trong lịch sử. Trong lịch sử, theo truyền thông Nho giáo, nơi nào có sự truyền dạy, quảng bá Nho học là nơi ấy chắc chắn có đền thờ Khổng Tử - Vạn Thế Sư Biểu, như giáo sư Nguyễn Tài Thư đã viết trong “Nho học Việt Nam đầu thời kỳ độc lập và thời điểm thành lập Văn miếu ở Thăng Long” [Sđd] như sau: “Đường Thái Tông không những xuống chiếu hạ lệnh xây Khổng miếu ở nhà Thái học kinh đô để thờ Tiên thánh Khổng Tử và Tiên sư Nhan Hồi mà còn hạ lệnh cho các nhà học ở các châu, huyện phải lập Khổng Miếu”. Dấu vết xưa nhất liên quan giáo dục là ở thời Tây Hán, Lê Tắc đã ghi chép trongAn Nam chí lược(biên soạn năm 1335) quyển thứ 14, Học hiệu: “Cuối đời Tây-Hán, Tích Quang cai-trị Giao-chỉ Nhâm-Diên cai trị Cửu- Chân, dựng nhà học-hiệu, dạy dân nói theo nhân nghĩa”. [Theo bản dịch Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam 1960, Nxb Viện Đại học Huế, 1961]. Khổng Miếu có khả năng xuất hiện vào thời kỳ này. Nhưng thực ra, Khổng Miếu (Văn Miếu) đúng nghĩaở Việt Nam cổ đại phải do nhà nước chính thức xây dựng và chỉ hiện hữu ở thời kỳ đất nước độc lập tự chủ mà thôi cho nên qua thư tịch cổ hiện còn lại chỉ có thể xác định vào đời Lý, đã từng diễn ra sự kiện lịch sử (1070) là tu sửa Khổng Miếu vốn đã có từ các đời trước.
Về quan điểm cho rằng thời Lý, Phật giáo toàn thịnh khó có khả năng xuất hiện Khổng Miếu hay Văn Miếu (như ý kiến của Polyakov) tuy có vẻ hợp lý nhưng thực ra lại “phi lịch sử” vì trong lịch sử, qua thư tịch ta thấy rõ ở Trung Quốc vào thời Đường, Phật giáo cực thịnh nhưng vẫn thấy Nho học phát triển, vẫn thấy tuyên xưng, phong Khổng Tử làm Văn Tuyên Vương và Khổng Miếu được gọi là Văn Tuyên Vương Miếu, trường học kinh đô được gọi là Quốc Tử Giám, học và giảng dạy về Nho Giáo, Tứ Thư, Ngũ Kinh... bấy nhiêu cũng đủ chứng tỏ ở Đại Việt - nước đồng văn - dù ởtriều đại nhà Lý, Phật giáohưngthịnh nhưng sựkiệntu sửa Văn Miếu, hình thành Quốc Tử Giám là một sự thật lịch sử xảy ra vào thời đại này. Hơn nữa theo sử sách xưa, nhà Lý đã từng mở những khoa thi mang tinh thần Nho giáo vào những năm 1075 tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường, năm 1086 thi người có văn học trong nước, sung làm quan ởHàn lâm viện; năm 1165 thi học sinh; năm 1185 thi sĩ nhân trong nước, người nào từ 15tuổi mà thông thi thư thì được vàohầu học ở ngự điện càng chứng tỏ Nho giáo đã bắt đầu xuất hiện và có ảnh hưởng quan trọng ngay cả vào thời kỳ Phật giáo toàn thịnh.
Tóm lại, Văn Miếu hiểu như đền, miếu Khổng Tử, theo sử sách còn lại chỉ xác nhận sự kiện vào thế kỷ XI, nhà Lý đã từng có những cuộc tu bổ và xây thêm(?) đền thờ Khổng Tử vào những năm 1070, 1156, 1171 chứ không phải là lần đầu tiên Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070 vào triều vua Lý Thánh Tông như mọi người bấy lâu nay tin tưởng và truyền bá.








