Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 09/04/2009 16:09 (GMT+7)

Đào Vinh Tế Hà và ý nghĩa nhân sinh

1. Đào kinh - một động thái đột phá để sống chung và cải tạo tự nhiên xã hội vùng biên giới Châu Đốc - Hà Tiên.

Vào đầu thế kỷ XIX, vùng đất phía tây nam hữu ngạn sông Hậu vẫn còn là vùng đất mới chưa được khai phá nhiều, dân cư thưa thớt. Sông Hậu chảy thẳng không quanh co, thiếu điều kiện cho phù sa lắng đọng, không tạo nên những giồng cao như sông Tiền. Chỉ có ít khu vực cao ráo như chợ Châu Đốc, Mỹ Đức, Cái Dầu… ở trên vành của cái lòng chảo, vùng trũng to lớn, bên kia vành là đồi núi ven vịnh Thái Lan. Các nhà nghiên cứu gọi đây là “ khu Tứ giác” với bốn chợ ở bốn góc là chợ Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên, Rạch Giá. Khu tứ giác này là một vùng trũng, bị ngập lụt hàng năm, nhiều phèn, thêm ảnh hưởng nước mặn từ vịnh Thái Lan. Vào mùa lụt, vùng này có thể ngập sâu hơn 3m, nước tràn láng ruộng, ghe thuyền lướt trên cỏ, trên bông súng mà đi giữa biển nước mênh mông, phải tìm cái cây cổ thụ làm mục tiêu định hướng. Vào mùa hạn, bùn khô cứng, không có đường sá, đi lại rất khó khăn phức tạp. Từ cửa biển Rạch Giá muốn qua sông Hậu, phải đi đường vòng qua sông Cái Lơn hoặc sông Cái Bé để đổ về rạch Cần Thơ, nhưng khoảng giữa lại rất trắc trở. Còn từ Long Xuyên muốn đến Rạch Giá thì phải theo con rạch thiên nhiên, qua núi Sập, nhưng tình trạng cũng như trên.

Trước khi đào kinh, vùng tứ giác Long Xuyên là một cánh đồng bao la, hoang hoá, từng cộng đồng dân cư nhỏ sống cô lập, không nối kết được với nhau, không có đường giao thông thuỷ bộ, những con rạch nhỏ tự nhiên chảy không định hướng, giữa một vùng mênh mông nước nhưng thiếu nước ngọt cho sản xuất và đời sống. Vì vậy, đào kinh là một giải pháp đột phá để mở đường cho giao thông, cải tạo đất, đưa nước ngọt vào tận cánh đồng sâu, đưa lũ ra biển Tây. Nước ngọt đến đâu, nhà cửa, thôn xóm mọc lên đến đó. Và từ đó những xóm làng, thị trấn đi theo những con kinh toả ra khắp vùng tứ giác Long Xuyên.

Ý thức được điều này, các vị vua đầu triều Nguyễn đã đặt ra vấn đề đào kinh, nhất là kinh Vĩnh Tế, đây là chuyện “quốc gia đại sự” mang tầm chiến lược, một động thái đột phá để tạo nên một bước chuyển mạnh mẽ cho vùng biên giới này. Năm 1819, Gia Long chỉ truyền cho Gia Định thành lo việc đào kinh như sau: “ Công trình đào sông này rất khó khăn, nhưng kế giữ nước và cách biên phòng quan hệ chẳng nhỏ, chúng ngươi tuy rằng ngày nay chịu khó, nhưng mà ích lợi cho muôn đời sau…” (1).

Trong 4 con kinh đào đầu tiên dưới triều Nguyễn (thời Pháp chưa đến) có đến 3 con kinh được đào ở vùng An Giang.

- Kinh đào đầu tiên là Kinh Bảo Định, nối sông Tiền qua Vàm Cỏ Tây, người đốc suất là Nguyễn Cửu Vân năm 1705 nhằm nối rạch Mỹ Tho qua ngọn rạch Vũng Gù.

- Kinh Thoại Hà đào cuối đời Gia Long 1818 nối ngọn rạch Long Xuyên qua ngọn Rạch Giá ở Sóc Suông. Con kinh này do Thoại Ngọc Hầu vâng chỉ vua Gia Long đào, được lấy tên ông đặt cho con kinh (Thoại Hà) và hòn núi Sập bên cạnh (Thoại Sơn).

- Kinh Vĩnh Tế, kinh quan trọng nhất, đào lâu năm nhất (5 năm, từ 1819 - 1824), gian khổ nhất (đi qua vùng Bảy Núi có đá ngầm dưới đất), huy động một số lượng binh lính, dân phu Việt, Hoa, Khmer… đông nhất, lên đến 80.000 lượt người. Kinh Vĩnh Tế lúc bấy giờ có độ dài từ Hậu Giang (Châu Đốc) đến cửa Giang Thành (Hà Tiên) dài 98.300 thước.

- Kinh Vĩnh An nối sông Hậu qua sông Tiền (Tân Châu), đào năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), đây là con kinh nhỏ, ngắn, đào trong vòng một năm thì xong.

Trong bốn con kinh đào này, kinh Vĩnh Tế là con kinh mang tầm chiến lược, và ngày càng phát huy tác dụng trên nhiều mặt cả về sinh thái lẫn chính trị quân sự, kinh tế xã hội và văn hoá. Đó là con đường ngắn nhất ra biển Thái Lan, nối An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp trong tổng thể phát triển. Đây là vùng khó khăn nhất, song đây cũng là vùng nhiều hứa hẹn nhất, vùng kinh tế phát triển của ta trong thế kỷ XXI.

2. Trở lại với kinh Vĩnh Tế, ý nghĩa nhân sinh quan trọng nhất là kinh Vĩnh Tế góp phần quyết định trong việc cải tạo môi trường sinh thái tạo ra một không gian xã hội ổn định lâu dài, làm nền móng cho sự phát triển, nhất là sự phát triển về nông thôn nông nghiệp.

Kinh Vĩnh Tế đưa nước lũ ra biển Tây, góp phần điều tiết lũ cho cả Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên. Chức năng này càng lúc càng quan trọng, nhờ nó mà chúng ta có thể bố trí, qui hoạch nhà cửa làng xóm để chủ động sống chung với lũ và biến lũ thay vì là tai ương trở thành một nét văn hoá đặc thù của Nam bộ.

Ta biết là nước ngọt đi tới đâu, đất đai được xổ phèn

rửa mặn đến đó, nước ngọt từ kinh Vĩnh tế, kinh Thoại Hà đã đi vào vùng sâu, các ngóc ngách, cánh đồng, nuôi dưỡng những ruộng lúa, vườn cây. Nông thôn mở rộng dần. Nó giải quyết được vấn đềsản xuất và vấn đề lưu thông hàng hoá, đây là tiền đề để kinh tế nông thôn phát triển. Nói như Gia Long năm 1816 khi xem bản đồ thành Châu Đốc: “ Xứ này nếu mởđường thuỷ thông với Hà Tiên thì hai đàng nông thương đều lợi” (2).

Điều này về sau, Minh Mạng năm 1821, có truyền cho Nguyễn Văn Thoại: “ Châu Đốc là vùng xung yếu, phải khéo léo trong mọi trường hợp, trấn an phủ dụ dân địa phương. Trước hết phải chiêu mộ dân buôn, xây dựng xóm làng, làm cho số dân đinh và số hộ khẩu ngày càng tăng, ruộng đất ngày càng khai khẩn thêm”.

Điều này bằng đột phá của kinh Vĩnh Tế, nhân dân Châu Đốc, An Giang đã từng bước “xây dựng cơ đồ”. Năm 1831, vùng Châu Đốc thành lập được 4 làng lớn nhỏ, dân đinh chỉ mới có hơn 80 người, bình quân mỗi làng có 20 dân đinh (3). Năm 1833, quân Xiêm xâm lược nước ta, tàn phá dọc kinh Vĩnh Tế, luôn cả về phía Tân Châu, nhưng chỉ 4 năm sau, 1838 vùng này đã chính thức thành lập hàng trụ xã rải rác từ núi Sam, dọc theo hai bờ kinh về phía Hà Tiên như các làng: Vĩnh Tế, Nhơn Hoà, An Quí, Thân Nhơn, Vĩnh Bảo, Long Thạnh, Vĩnh Gia, Vĩnh Lạc…

Gia định thành thông chísoạn cuối đời Gia Long, trong danh mục thôn xã có xác nhận từ biên giới đến biển chỉ thành lập vỏn vẹn được một huyện, huyện Vĩnh Định với 27 thôn với lời giải thích: “ huyện Vĩnh Định địa phương tuy rộng nhưng dân chưa đông nên chưa chia ra thành tổng”. Một huyện có 27 thôn là quá ít nếu so với các huyện vùng trên thì huyện Tân An (Bến Tre) có 135 thôn trại, huyện Kiến Hoà có 151 thôn ấp.

Hiện nay ở hai bên bờ kinh Vĩnh Tế để tưởng nhớ người đã góp công khai mở con kinh (Thoại Ngọc Hầu) cùng người vợ hiền thục đã giúp chồng trong sự nghiệp giúp dân đã được vua sắc phong (bà Châu Vĩnh Tế), nhân dân đã đặt tên các làng có chữ Vĩnh ở đầu như làng Vĩnh Ngươn, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia, Vĩnh Thông, ở sát biên giới có các làng Vĩnh Lộc, Vĩnh Hậu, Vĩnh Trường, Vĩnh Hội Đông…

Kinh Vĩnh tế đã đi đúng luật tự nhiên, đi đúng hướng phát triển của vùng đất, rõ ràng là cần phải gia công hoàn chỉnh thêm, nhất là bằng trí tuệ và khoa học kỹ thuật, vì thời đó chúng ta chỉ có sức người và công cụ lao động thô sơ. Nhưng vùng không gian xã hội này đã không ngừng phát triển vì đã đi đúng qui luật của vùng đất còn người ở đây.

3. Đối với vùng biên giới, một ý nghĩa nhân sinh quan trọng hàng đầu là bảo vệ sự an lành cho các cộng đồng dân cư sống ở đây. Vùng biên giới là nơi khẳng định chủ quyền lãnh thổ của quốc gia, một nơi rất nhạy cảm, nhưng cũng là nơi thường xuyên bị quấy nhiễu bởi đủ loạn trộm cướp, buôn lậu và nạn ngoại xâm.

Dưới thời Nguyễn, trước khi đào kinh Vĩnh Tế, quân Xiêm đã hai lần vào xâm lược nước ta và đều đi vào ngã Hà Tiên – Châu Đốc. Lần đầu quân Xiêm đóng chiếm thành Hà Tiên suốt hai năm ròng rã, đưa quân xuống đến đồn Lấp Vò trên sông Hậu, Mạc Thiên Tứ phải bôn tẩu. Năm 1772. Nguyễn Cửu Đàm phải đưa quân từ Khánh Hoà và Bình Thuận vào đánh đuổi.

Năm 1833, Lê Văn Khôi khởi binh chiếm thành Phiên An (Gia Định). Khôi cầu viện quân Xiêm. Xiêm sai tướng Chiêu Phi Nhã Bất Tri và Chiêu Phi Nhã Phật Lăng đem vài vạn quân vượt qua Campuchia vào xâm lấn tỉnh An Giang và Hà Tiên, Quốc triều chính biênchép “Quản vệ Phạm Hữu Tâm đốc binh đánh từ giờ Dần đến giờ Tỵ, quân giặc chết nhiều, thây chồng chất nhau. Giặc liền rút lui”.

Năm 1841, Thiệu Trị nguyên niên, Xiêm lại sang phục thù. Tướng Xiêm bại trận lần trước đem quân đến, dựng đồn lũy ở bờ kinh Vĩnh Tế, rồi qua lại gây sự với đồn bảo của quân ta. Nhưng trong nước Xiêm có chuyện bất ổn nên quân Xiêm rút lui. Năm sau, 1842, quân Xiêm lại đổ bộ vào Hà Tiên. Ta chặn giặc tại đồn Vĩnh Thông, lại thêm cánh quân từ sông Tiền sông Hậu đổ xuống. Ta chia quân chống cự và đuổi giặc ra khỏi biên giới.

Dọc theo kinh Vĩnh Tế ta đặt nhiều đồn nhỏ (bảo) ở các làng Vĩnh Tế, Vĩnh Thông, Vĩnh Lạc, Vĩnh Điều, Thân Nhơn, Vĩnh Gia, An Lạc… để canh giữ biên giới.

Kinh Vĩnh Tế ngày càng trở nên quan trọng trong chức năng bảo vệ vùng biên cương của Tổ quốc. Với ý nghĩa nhân sinh là xây dựng và bảo vệ cộng đồng dân cư ở vùng biên giới của Tổ quốc, đóng góp vai trò xứng đáng vào sự phát triển toàn diện của vùng Tây Nam này.

Chú thích

1. Quốc triều Chính biên toát yếu,quyển 2, từ 57a, dẫn lại Nguyễn Văn hầu, Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang.Nxb Hương Sen, Sài Gòn, 1972, tr 185

2. Nguyễn Bá Trách, Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu, trang 330.

3. Sơn Nam , Đất Gia định xưa, Nxb Tp. HCM, 1993, tr 65, 66.

Tài liệu tham khảo

- Đại Nam Nhất thống chí, Quốc sử quán triều Nguyễn, Tập 5, Nxb Thuận Hoá, 1996.

- Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cưus địa bạ triều Nguyễn An Giang, Nxb Tp HCM, 1995.

- Sơn Nam , Đất Gia định xưa, Nxb, Tp HCM, 1993

- Sơn Nam , Lịch sử An Giang, Nxb Tổng hợp An Giang, 1988.

- Nguyễn Văn Hầu, Thoại ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang,Hương Sen, 1972.

- Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam ,Nxb Tp. HCM. 1997

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.