Đào Vinh Tế Hà và ý nghĩa nhân sinh
1. Đào kinh - một động thái đột phá để sống chung và cải tạo tự nhiên xã hội vùng biên giới Châu Đốc - Hà Tiên.
Vào đầu thế kỷ XIX, vùng đất phía tây nam hữu ngạn sông Hậu vẫn còn là vùng đất mới chưa được khai phá nhiều, dân cư thưa thớt. Sông Hậu chảy thẳng không quanh co, thiếu điều kiện cho phù sa lắng đọng, không tạo nên những giồng cao như sông Tiền. Chỉ có ít khu vực cao ráo như chợ Châu Đốc, Mỹ Đức, Cái Dầu… ở trên vành của cái lòng chảo, vùng trũng to lớn, bên kia vành là đồi núi ven vịnh Thái Lan. Các nhà nghiên cứu gọi đây là “ khu Tứ giác” với bốn chợ ở bốn góc là chợ Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên, Rạch Giá. Khu tứ giác này là một vùng trũng, bị ngập lụt hàng năm, nhiều phèn, thêm ảnh hưởng nước mặn từ vịnh Thái Lan. Vào mùa lụt, vùng này có thể ngập sâu hơn 3m, nước tràn láng ruộng, ghe thuyền lướt trên cỏ, trên bông súng mà đi giữa biển nước mênh mông, phải tìm cái cây cổ thụ làm mục tiêu định hướng. Vào mùa hạn, bùn khô cứng, không có đường sá, đi lại rất khó khăn phức tạp. Từ cửa biển Rạch Giá muốn qua sông Hậu, phải đi đường vòng qua sông Cái Lơn hoặc sông Cái Bé để đổ về rạch Cần Thơ, nhưng khoảng giữa lại rất trắc trở. Còn từ Long Xuyên muốn đến Rạch Giá thì phải theo con rạch thiên nhiên, qua núi Sập, nhưng tình trạng cũng như trên.
Trước khi đào kinh, vùng tứ giác Long Xuyên là một cánh đồng bao la, hoang hoá, từng cộng đồng dân cư nhỏ sống cô lập, không nối kết được với nhau, không có đường giao thông thuỷ bộ, những con rạch nhỏ tự nhiên chảy không định hướng, giữa một vùng mênh mông nước nhưng thiếu nước ngọt cho sản xuất và đời sống. Vì vậy, đào kinh là một giải pháp đột phá để mở đường cho giao thông, cải tạo đất, đưa nước ngọt vào tận cánh đồng sâu, đưa lũ ra biển Tây. Nước ngọt đến đâu, nhà cửa, thôn xóm mọc lên đến đó. Và từ đó những xóm làng, thị trấn đi theo những con kinh toả ra khắp vùng tứ giác Long Xuyên.
Ý thức được điều này, các vị vua đầu triều Nguyễn đã đặt ra vấn đề đào kinh, nhất là kinh Vĩnh Tế, đây là chuyện “quốc gia đại sự” mang tầm chiến lược, một động thái đột phá để tạo nên một bước chuyển mạnh mẽ cho vùng biên giới này. Năm 1819, Gia Long chỉ truyền cho Gia Định thành lo việc đào kinh như sau: “ Công trình đào sông này rất khó khăn, nhưng kế giữ nước và cách biên phòng quan hệ chẳng nhỏ, chúng ngươi tuy rằng ngày nay chịu khó, nhưng mà ích lợi cho muôn đời sau…” (1).
Trong 4 con kinh đào đầu tiên dưới triều Nguyễn (thời Pháp chưa đến) có đến 3 con kinh được đào ở vùng An Giang.
- Kinh đào đầu tiên là Kinh Bảo Định, nối sông Tiền qua Vàm Cỏ Tây, người đốc suất là Nguyễn Cửu Vân năm 1705 nhằm nối rạch Mỹ Tho qua ngọn rạch Vũng Gù.
- Kinh Thoại Hà đào cuối đời Gia Long 1818 nối ngọn rạch Long Xuyên qua ngọn Rạch Giá ở Sóc Suông. Con kinh này do Thoại Ngọc Hầu vâng chỉ vua Gia Long đào, được lấy tên ông đặt cho con kinh (Thoại Hà) và hòn núi Sập bên cạnh (Thoại Sơn).
- Kinh Vĩnh Tế, kinh quan trọng nhất, đào lâu năm nhất (5 năm, từ 1819 - 1824), gian khổ nhất (đi qua vùng Bảy Núi có đá ngầm dưới đất), huy động một số lượng binh lính, dân phu Việt, Hoa, Khmer… đông nhất, lên đến 80.000 lượt người. Kinh Vĩnh Tế lúc bấy giờ có độ dài từ Hậu Giang (Châu Đốc) đến cửa Giang Thành (Hà Tiên) dài 98.300 thước.
- Kinh Vĩnh An nối sông Hậu qua sông Tiền (Tân Châu), đào năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), đây là con kinh nhỏ, ngắn, đào trong vòng một năm thì xong.
Trong bốn con kinh đào này, kinh Vĩnh Tế là con kinh mang tầm chiến lược, và ngày càng phát huy tác dụng trên nhiều mặt cả về sinh thái lẫn chính trị quân sự, kinh tế xã hội và văn hoá. Đó là con đường ngắn nhất ra biển Thái Lan, nối An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp trong tổng thể phát triển. Đây là vùng khó khăn nhất, song đây cũng là vùng nhiều hứa hẹn nhất, vùng kinh tế phát triển của ta trong thế kỷ XXI.
2. Trở lại với kinh Vĩnh Tế, ý nghĩa nhân sinh quan trọng nhất là kinh Vĩnh Tế góp phần quyết định trong việc cải tạo môi trường sinh thái tạo ra một không gian xã hội ổn định lâu dài, làm nền móng cho sự phát triển, nhất là sự phát triển về nông thôn nông nghiệp.
Kinh Vĩnh Tế đưa nước lũ ra biển Tây, góp phần điều tiết lũ cho cả Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên. Chức năng này càng lúc càng quan trọng, nhờ nó mà chúng ta có thể bố trí, qui hoạch nhà cửa làng xóm để chủ động sống chung với lũ và biến lũ thay vì là tai ương trở thành một nét văn hoá đặc thù của Nam bộ.
Ta biết là nước ngọt đi tới đâu, đất đai được xổ phèn
![]() |
Điều này về sau, Minh Mạng năm 1821, có truyền cho Nguyễn Văn Thoại: “ Châu Đốc là vùng xung yếu, phải khéo léo trong mọi trường hợp, trấn an phủ dụ dân địa phương. Trước hết phải chiêu mộ dân buôn, xây dựng xóm làng, làm cho số dân đinh và số hộ khẩu ngày càng tăng, ruộng đất ngày càng khai khẩn thêm”.
Điều này bằng đột phá của kinh Vĩnh Tế, nhân dân Châu Đốc, An Giang đã từng bước “xây dựng cơ đồ”. Năm 1831, vùng Châu Đốc thành lập được 4 làng lớn nhỏ, dân đinh chỉ mới có hơn 80 người, bình quân mỗi làng có 20 dân đinh (3). Năm 1833, quân Xiêm xâm lược nước ta, tàn phá dọc kinh Vĩnh Tế, luôn cả về phía Tân Châu, nhưng chỉ 4 năm sau, 1838 vùng này đã chính thức thành lập hàng trụ xã rải rác từ núi Sam, dọc theo hai bờ kinh về phía Hà Tiên như các làng: Vĩnh Tế, Nhơn Hoà, An Quí, Thân Nhơn, Vĩnh Bảo, Long Thạnh, Vĩnh Gia, Vĩnh Lạc…
Gia định thành thông chísoạn cuối đời Gia Long, trong danh mục thôn xã có xác nhận từ biên giới đến biển chỉ thành lập vỏn vẹn được một huyện, huyện Vĩnh Định với 27 thôn với lời giải thích: “ huyện Vĩnh Định địa phương tuy rộng nhưng dân chưa đông nên chưa chia ra thành tổng”. Một huyện có 27 thôn là quá ít nếu so với các huyện vùng trên thì huyện Tân An (Bến Tre) có 135 thôn trại, huyện Kiến Hoà có 151 thôn ấp.
Hiện nay ở hai bên bờ kinh Vĩnh Tế để tưởng nhớ người đã góp công khai mở con kinh (Thoại Ngọc Hầu) cùng người vợ hiền thục đã giúp chồng trong sự nghiệp giúp dân đã được vua sắc phong (bà Châu Vĩnh Tế), nhân dân đã đặt tên các làng có chữ Vĩnh ở đầu như làng Vĩnh Ngươn, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia, Vĩnh Thông, ở sát biên giới có các làng Vĩnh Lộc, Vĩnh Hậu, Vĩnh Trường, Vĩnh Hội Đông…
Kinh Vĩnh tế đã đi đúng luật tự nhiên, đi đúng hướng phát triển của vùng đất, rõ ràng là cần phải gia công hoàn chỉnh thêm, nhất là bằng trí tuệ và khoa học kỹ thuật, vì thời đó chúng ta chỉ có sức người và công cụ lao động thô sơ. Nhưng vùng không gian xã hội này đã không ngừng phát triển vì đã đi đúng qui luật của vùng đất còn người ở đây.
3. Đối với vùng biên giới, một ý nghĩa nhân sinh quan trọng hàng đầu là bảo vệ sự an lành cho các cộng đồng dân cư sống ở đây. Vùng biên giới là nơi khẳng định chủ quyền lãnh thổ của quốc gia, một nơi rất nhạy cảm, nhưng cũng là nơi thường xuyên bị quấy nhiễu bởi đủ loạn trộm cướp, buôn lậu và nạn ngoại xâm.
Dưới thời Nguyễn, trước khi đào kinh Vĩnh Tế, quân Xiêm đã hai lần vào xâm lược nước ta và đều đi vào ngã Hà Tiên – Châu Đốc. Lần đầu quân Xiêm đóng chiếm thành Hà Tiên suốt hai năm ròng rã, đưa quân xuống đến đồn Lấp Vò trên sông Hậu, Mạc Thiên Tứ phải bôn tẩu. Năm 1772. Nguyễn Cửu Đàm phải đưa quân từ Khánh Hoà và Bình Thuận vào đánh đuổi.
Năm 1833, Lê Văn Khôi khởi binh chiếm thành Phiên An (Gia Định). Khôi cầu viện quân Xiêm. Xiêm sai tướng Chiêu Phi Nhã Bất Tri và Chiêu Phi Nhã Phật Lăng đem vài vạn quân vượt qua Campuchia vào xâm lấn tỉnh An Giang và Hà Tiên, Quốc triều chính biênchép “Quản vệ Phạm Hữu Tâm đốc binh đánh từ giờ Dần đến giờ Tỵ, quân giặc chết nhiều, thây chồng chất nhau. Giặc liền rút lui”.
Năm 1841, Thiệu Trị nguyên niên, Xiêm lại sang phục thù. Tướng Xiêm bại trận lần trước đem quân đến, dựng đồn lũy ở bờ kinh Vĩnh Tế, rồi qua lại gây sự với đồn bảo của quân ta. Nhưng trong nước Xiêm có chuyện bất ổn nên quân Xiêm rút lui. Năm sau, 1842, quân Xiêm lại đổ bộ vào Hà Tiên. Ta chặn giặc tại đồn Vĩnh Thông, lại thêm cánh quân từ sông Tiền sông Hậu đổ xuống. Ta chia quân chống cự và đuổi giặc ra khỏi biên giới.
Dọc theo kinh Vĩnh Tế ta đặt nhiều đồn nhỏ (bảo) ở các làng Vĩnh Tế, Vĩnh Thông, Vĩnh Lạc, Vĩnh Điều, Thân Nhơn, Vĩnh Gia, An Lạc… để canh giữ biên giới.
Kinh Vĩnh Tế ngày càng trở nên quan trọng trong chức năng bảo vệ vùng biên cương của Tổ quốc. Với ý nghĩa nhân sinh là xây dựng và bảo vệ cộng đồng dân cư ở vùng biên giới của Tổ quốc, đóng góp vai trò xứng đáng vào sự phát triển toàn diện của vùng Tây Nam này.
Chú thích
1. Quốc triều Chính biên toát yếu,quyển 2, từ 57a, dẫn lại Nguyễn Văn hầu, Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang.Nxb Hương Sen, Sài Gòn, 1972, tr 185
2. Nguyễn Bá Trách, Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu, trang 330.
3. Sơn Nam , Đất Gia định xưa, Nxb Tp. HCM, 1993, tr 65, 66.
Tài liệu tham khảo
- Đại Nam Nhất thống chí, Quốc sử quán triều Nguyễn, Tập 5, Nxb Thuận Hoá, 1996.
- Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cưus địa bạ triều Nguyễn An Giang, Nxb Tp HCM, 1995.
- Sơn Nam , Đất Gia định xưa, Nxb, Tp HCM, 1993
- Sơn Nam , Lịch sử An Giang, Nxb Tổng hợp An Giang, 1988.
- Nguyễn Văn Hầu, Thoại ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang,Hương Sen, 1972.
- Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam ,Nxb Tp. HCM. 1997









