Đào tạo đại học, cao đẳng hệ không chính quy ở nước ta hiện nay
1.ĐTKCQ ở nước ta hiện nay
1) Về cơ cấu. ĐTKCQ có 3 hình thức là: vừa làm vừa học (tại chức), ĐTTX, ĐT chuyên tu cũ (hoàn chỉnh kiến thức, liên thông).Đầu năm 2007, toàn quốc có 357 trường ĐH, CĐ(160 trường ĐH, học viện, 197 trường CĐ); trong đó, có 200 trường tổ chức ĐTKCQ (106 trường ĐH và 94 trường CĐ). ĐTKCQ chủ yếu là hình thức vừa làm vừa học (VLVH) 75,4%, ĐTTX có tỉ lệ thấp. Tổng quy mô ĐTKCQ hiện nay khoảng 834.473 Sv, chiếm khoảng 49,8% tổng số sinh viên (SV) (tổng quy mô ĐT của các trường ĐH, CĐ hiện nay 1.676.117SV). Tổng số giảng viên tương ứng với quy mô ĐTKCQ nói trên là 34.350 chiếm tỉ lệ 24,30 SV/giảng viên.
Số SV tham gia học KCQ chủ yếu ở trình độ ĐH, chiếm 86,3%, ở trình độ CĐ chiếm 13,7%; trong đó, khối Kĩ thuật - Công nghệ chiếm 15,9%; khối Sư phạm chiếm 26,3%; khối Kinh tế chiếm 37,1%; khối Khoa học cơ bản chiếm 6,4%; khối KHXH&NV, Luật, Chính trị chiếm 5,2%; khối Văn hóa - Nghệ thuật - Thể dục thể thao chiếm 1,1%; khối Ngoại ngữ chiếm 6,4%; khối Y - Dược chỉ chiếm 1,3%. Các trường đặt lớp ĐTKCQ chủ yếu tại địa phương, chiếm 62,9%, tại trường chỉ chiếm 37,1%. Số SV tốt nghiệp so với thực tuyển hàng năm bình quân từ 55%-60%.
2) Về hình thức ĐT
-ĐT theo hình thức vừa làm vừa học (tại chức cũ):Trước năm 1993, hình thức ĐT này chỉ dành riêng cho những người đã có tối thiểu 2 năm làm việc. Từ năm 1994, quy mô ĐT theo hình thức VLVH liên tục tăng, đáp ứng nhu cầu ĐT và ĐT lại để chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, nhu cầu học để tìm việc làm, nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp của những người lao động thuộc các thành phần kinh tế nên không quy định thời gian công tác.
Năm 2009, theo số liệu báo cáo của 149 trường ĐH, CĐ (trong tổng số 200 trường ĐTKCQ) có tổng quy mô ĐT vừa làm vừa học là 549.831 – chiếm 32,8% tổng quy mô tuyển sinh cả nước. Trong đó, ĐT tại trường là 238.848 chiếm 43,5%, ĐT tại địa phương là 310.933 chiếm 56,5%. Điều này chưa phù hợp với chính sách và mục tiêu của ĐT theo hình thức VLVH là đưa lớp học về với người học, tạo điều kiện cho những người vừa đi làm vừa đi học, không có điều kiện theo học ở các trường lớp chính quy.
- ĐT hoàn chỉnh kiến thức (chuyên tu cũ):Cùng với hình thức ĐT VLVH, từ những năm 60 thế kỉ XX, nhiều trường ĐH đã mở những lớp ĐT ĐH theo hình thức chuyên tu để nâng cao trình độ khoa học kĩ thuật và nghiệp vụ QL kinh tế cho cán bộ trình độ trung cấp chuyên nghiệp lên trình độ ĐH theo đúng ngành nghề đã được ĐT ở bậc trung cấp. Theo các quy định tại Thông tư số 34/TT-ĐH ngày 25/09/1986 của Bộ ĐH và THCN (nay là Bộ GD-ĐT), đối tượng ĐT chuyên tu ĐH tập trung là những người có 5 năm công tác kể từ khi tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp, thời gian ĐT là 3 năm học tập trung (không kể thời gian ôn tập và thi tuyển). Do vậy, quy mô ĐT theo hình thức chuyên tu không lớn. Theo thống kê giáo dục, năm học 2002-2003 số SV hệ chuyên tu chỉ có 5.148 SV; đến năm 2007, theo báo cáo của 149 trường ĐH, CĐ có 48 trường ĐT chuyên tu với quy mô là 78.921 SV, chiếm 9,5%. Trong đó, ĐH tại trường là 50,5%, ĐT tại địa phương là 49,5%.
ĐT theo hình thức chuyên tu thời gian qua cũng đã có nhiều thay đổi về đối tượng tuyển sinh, thời gian ĐT, địa điểm đặt lớp (không chỉ ĐT ở trình độ ĐH như quy định ở Thông tư số 34/TT-ĐH, mà ở cả trình độ CĐ; không chỉ hạn chế ở những người đã có bằng tốt nghiệp trung cấp mà cả cho những người có bằng CĐ học lên ĐH; hầu hết là tổ chức theo hình thức “ĐT VLVH mở tại địa phương”), từ năm 2005 các trường đã tổ chức ĐT liên thông theo hình thức VLVH hoặc chính quy.
- ĐT theo hình thức học TX:ĐTTX là một trong những đổi mới về hình thức giáo dục của nước ta và đang từng bước mở rộng và liên tục phát triển cùng với sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin và truyền thông, đáp ứng nhu cầu học tập của mọi người, đặc biệt những người sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn, không có điều kiện tới trường học tập.
Năm 1993, Chính phủ đã quyết định thành lập Viện ĐH mở Hà Nội và Trường ĐH mở bán công TP. Hồ Chí Minh (nay là ĐH mở TP. Hồ Chí Minh) với chức năng chủ yếu là ĐT theo hình thức TX. Cho đến nay đã có 13 trường ĐH đang thực hiện các chương trình ĐTTX, nhiều trường có quy mô rất lớn như: ĐH Huế, ĐH Đà Nẵng, Viện ĐH mở Hà Nội, Trường ĐHSP Hà Nội, ĐH Mở TP. Hồ Chí Minh, Trường ĐH công nghệ thông tin - ĐHQG TP. Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, hình thức ĐTTX ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế về công nghệ ĐT, phương tiện thiết bị kĩ thuật; chương trình, tài liệu học tập; trình độ chuyên môn nghiệp vụ của giảng viên; kinh nghiệm tổ chức thi và kiểm tra đánh giá; trình độ tổ chức và QL.
3) Về liên kết ĐT. Theo quy định của Thông tư 20/TT ngày 14/11/1994 về việc hướng dẫn mở và quản lí (QL) các lớp ĐT không tập trung, khái niệm liên kết ĐT chỉ được dùng ở phần hướng dẫn mở các lớp địa phương có liên quan đến hợp đồng ĐT. Vai trò trách nhiệm chính đối với các lớp mở tại địa phương thuộc trách nhiệm của các trường ĐH CĐ. Cơ sở tại địa phương là địa điểm cung cấp cơ sở vật chất (nơi đặt lớp), chỉ phối hợp thực hiện nhiệm vụ QL hành chính và QL lớp học theo ủy quyền của trường có chức năng ĐT.
Từ năm 2005, khái niệm liên kết ĐT đã được đưa vào Luật Giáo dục: các trường ĐH, CĐ chỉ được liên kết với cơ sở giáo dục tại địa phương là trường ĐH, trường CĐ, trường trung cấp, trung tâm GDTX cấp tỉnh với điều kiện cơ sở giáo dục tại địa phương bảo đảm các yêu cầu về cơ sở vật chất, thiết bị và cán bộ QL cho việc ĐT trình độ CĐ, trình độ ĐH.Mặc dù Luật Giáo dụcđã quy định cụ thể, nhưng một số trường ĐH, CĐ đã liên kết đặt lớp tại những nơi không đúng quy định. Về nguyên tắc mở lớp liên kết ĐT tại địa phương, các tỉnh cần có công văn đề xuất nhu cầu, ngành nghề ĐT trên cơ sở quy hoạch chiến lược phát triển KT-XH của tỉnh, các trường căn cứ vào nhu cầu ĐT của tỉnh phân bổ chỉ tiêu và xây dựng kết hoạch mở lớp.
2. Về tình hình và chất lượng ĐTKCQ
1) Những kết quả đạt được
ĐTKCQ đã gáp phần nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ chủ chốt của các bộ, ngành, địa phương, đặc bietj là các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn, góp phần ĐT bồi dưỡng nhân lực tại chỗ phục vụ cho sự nghiệp phát triển KT-XH trong thời kì đổi mới của đất nước, tạo thêm cơ hội cho những người có hoàn cảnh khác nhau không có điều kiện học ở các trường lớp chính quy tập trung được nâng cao trình độ, chuyển đổi nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống.
ĐTKCQ đã huy động các nguồn lực trong xã hội phục vụ cho sự nghiệp phát triển giáo dục trong khi không có ngân sách của nhà nước. Bằng nguồn kinh phí đóng góp của người học, các trường ĐH, CĐ có thêm nguồn kinh phí để đầu tư tăng cường cho CSVC, trang thiết bị, chương trình ĐT và tài liệu giảng dạy, học tập.
Các địa phương đã xây dựng được hệ thống các trung tâm giáo dục thường xuyên (TTGDTX) cấp tỉnh vững mạnh. Nhiều trung tâm có đội ngũ QL thạo việc, được trang bị cơ sở vật chất, thiết bị giảng dạy và học tập cũng như hội trường, lớp học tương đối khang trang, là địa điểm đặt lớp để các trường ĐH, CĐ, triển khai công tác ĐTKCQ tại các địa phương.
ĐT theo phương thức GDKCQ đã đem lại lợi ích to lớn cho toàn xã hội, khai thác được khả năng, trí tuệ của đội ngũ giảng viên, nhà giáo trong công tác ĐT nguồn nhân lực cho địa phương. Thông qua việc giảng dạy, đội ngũ giảng viên của các trường ĐH, CĐ có điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống, năng lực chuyên môn, phương pháp giảng dạy, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục ĐH.
Phát triển quan hệ hợp tác quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực ĐTTX. Ví dụ: năm 1997 Vương quốc Bỉ đã tài trợ Dự án ĐT giáo viên THCS cho 06 tỉnh vùng núi và vùng sâu đã ĐT trình độ cho 1.500 giáo viên tiểu học và 2.500 giáo viên trung học cơ sở, hỗ trợ Trường ĐHSP Hà Nội và ĐH Huế biện soạn và phát hành hơn 200 giáo trình các môn học cho ĐTTX.
2) Những hạn chế trong công tác ĐTKCQ
Mất cân đối về cơ cấu ngành nghề và trình độ ĐH. Qua các đợt kiểm tra và báo cáo của các trường ĐH, CĐ cho thấy số SV ĐT theo phương thức ĐTKCQ tập trung chủ yếu vào các ngành dễ dạy, dễ học, ít phải đầu tư CSVC, thiết bị, thí nghiệm và các cơ sở thực hành. Mất cân đối về hình thức ĐT theo phương thức GDKCQ tập trung chủ yếu vào hình thức VLVH còn các hình thức khác chiếm tỉ lệ thấp hơn.
Ý thức của nhiều người học khi tham gia hình thức ĐTKCQ chưa cao, dễ thỏa hiệp theo những tiêu cực trong tổ chức ĐT như cắt xén thời lượng, giảm bớt giờ học, trong kiểm tra, đánh giá.
Không bảo đảm điều kiện học tập và môi trường sư phạm. Các trường ĐH, CĐ mở lớp tại địa phương không đúng quy định, không đặt lớp tại TTGDTX tỉnh mà tổ chức lớp học ở nơi khác,…
Không đảm bảo thời gian ĐT: một số trường tổ chức ĐT cấp bằng CĐSP cho đối tượng là trung học sư phạm chỉ ĐT trong 6 tháng (quy định của Luật Giáo dục năm 2005 là 1,5-2 năm). Chương trình ĐT bị cắt xén nhiều so với chương trình ĐT cùng trình độ. Việc tổ chức giảng dạy không chặt chẽ, nhiều nơi nhiều lớp thực hiện giảng dạy các môn học theo cuốn chiếu.
Điều kiện phục vụ giảng dạy như các thư viện, phòng thí nghiệm, cơ sở thực hành không đảm bảo đúng yêu cầu của chương trình ĐT. Giảng viên chưa có trách nhiệm cao và nghiêm túc trong việc thực hiện nhiệm vụ giảng dạy các lớp KCQ, đặc biệt là các lớp tổ chức ở các địa phương, xa trường.
QL công tác ĐTKCQ của Ban giám hiệu nhiều trường chưa chặt chẽ, chưa thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh những vi phạm trong giảng dạy, tổ chức, QL các hình thức ĐTKCQ.
Chất lượng chung của ĐTKCQ chưa đảm bảo, chưa nhận được tin tưởng của người sử dụng.
3) Nguyên nhân của những hạn chế
Nhận thức của đội ngũ cán bộ QL và giáo viên về công tác ĐTKCQ còn chưa đúng mức.Nhiều trường ĐH đã tổ chức tuyển sinh và ĐT chính quy rất nghiêm túc và được đánh giá chất lượng nhưng khi tổ chức tuyển sinh VLVH lại thực hiện việc ra đề thi và coi thi chưa nghiêm túc.
Quy mô ĐT vượt quá khả năng đảm bảo chất lượng ĐT. Quy mô Đt tăng nhanh, nhiều trường mở lớp ở quá nhiều địa điểm. Đội ngũ giáo viên về số lượng, yếu về chất lượng, hơn nữa lại bị quá tải, không có điều kiện nghiên cứu, tự bồi dưỡng nâng cao chuyên môn. CSVC thiết bị, thí nghiệm, thư viện, học liệu của nhiều trường cũng như ở các cơ sở đặt lớp còn thiếu thốn và lạc hậu, chưa đáp ứng được yếu cầu ĐT.
Công tác kiểm tra, thanh tra chưa thường xuyên, việc phát hiện, xử lí các sai phạm chưa kịp thời và triệt để. Đội ngũ cán bộ QL KCQ của một số trường còn quá mỏng, phân tán và kiêm nhiệm, đồng thời gị thay đổi thường xuyên, lại không được tập huấn nên không cập nhật được các quy chế về tuyển sinh và QLĐT.
Phân cấp toàn diện thiếu điều kiện QL.Việc phân cấp để tăng quyền tự chủ cho các trường ĐH trong khi tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm không cao, tính kỉ luật, kỉ cương trong việc tuyển sinh ĐT và cấp văn bằng có nhiều thiếu sót.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng ĐT ĐH, CĐ theo phương pháp GDKCQ
1) Tiếp tục hoàn thiện về thể chế QL.Trước hết, cần ban hành quy chế tuyển sinh vừa làm vừa học; không quy định thời gian bắt buộc phải một năm công tác (không có cơ sở lí luận, với học sinh tốt nghiệp THBT được thi ngay còn học sinh THPT sau một năm mới được dự thi), nhưng ưu tiên cho những người có thâm niên công tác thực tế, đồng thời quy định cụ thế về vấn đề thi tuyển sinh để QL chặt chẽ tuyển sinh KCQ thay thế Quy chế số 01 ngày 29/01/2001.
2) Đổi mới thi tuyển sinh đối với hệ ĐTKCQ. Tổ chức thi tuyển sinh VLVH mỗi năm theo từng đợt chung cho cả nước phải thực hiện nghiêm túc. Đề thi tuyển sinh VLVH của các trường ĐH, CĐ phải lấy đề thi từ ngân hàng đề của Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục. Riêng đề thi kết thúc học phần kết thúc môn học các trường thống nhất dùng ngân hàng đề thi hệ chính quy của trường, ngân hàng đề thi phải đủ lớn đảm bảo chất lượng, được Bộ GD –ĐT kiểm tra thẩm định.
3) Xây dựng hệ thống tiêu chí về điều kiện giảng dạy, học tập , chất lượng giảng viện trong ĐTKCQ.Tổ chức triển khai hệ thống kiểm định công nhận chất lượng ĐT đỗi với hệ thống KCQ. Xây dựng chế độ tài chính; quy định sử dụng các nguồn thu trong giáo dục KCQ để tái đầu tư tằng cường CSVC, trang thiết bị, thư viện, học liệu cho giáo dục KCQ.
4) Xây dựng bộ máy tổ chức và nguồn nhân lực.Tăng cường bộ máy QL ĐT giáo dục KCQ của các trường ĐH, CĐ. Đối với các trường có quy mô từ 3000 SV KCQ trở lên phải có bộ phận độc lập để theo dõi QL hình thức ĐT này.
5) Tăng cường công tác kiểm tra, thanh traviệc thực hiện chỉ tiêu của các trường ĐH, CĐ; cân đối chỉ tiêu, ngành nghề ĐT cho các vùng miền, nơi có điều kiện KT-XH khó khăn. Kiểm tra các điều kiện về trường lớp, CSVC, phương tiện giảng dạy, chương trình và ngành nghề ĐT. Kiên quyết xử lí các cơ sở giáo dục đặt lớp sai quy định không bảo đảm môi trường sư phạm. Kiểm tra, giám sát các điều kiện mở lớp theo quy định tại Khoản 4 Điều 46, Luật Giáo dục. Thực hiện việc thanh tra, kiểm tra công tác chuẩn bị thi, coi thi, chấm thi và kiểm tra trúng tuyển như hệ chính quy.
6) Chấn chỉnh việc tuyển sinh, ĐT VLVHtheo tinh thần cuộc vận động “Chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục” và “Nói không với ĐT không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu xã hội”. Tổ chức rà soát, đánh giá việc tổ chức các hoạt động ĐTKCQ ở các cấp QL từ bộ môn, khoa, trường, học viện trong việc thức hiện nghiêm túc các quy định của quy chế tuyển sinh và ĐT cấp phát văn bằng, bảo đảm chất lượng và đáp ứng nhu cầu ĐT.
7) Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy và học, đổi mới cơ chế QLtheo hướng phát huy tính chủ động tích cực của người học, nhằm phát triển các tiềm năng học tập nghiên cứu sáng tạo, phát triển cá nhân gắn kết với xã hội, tìm và tạo việc làm. Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong giảng dạy, học tập và trong QL ĐT, sử dụng giáo trình điện tử trên mạng làm tài liệu giảng dạy trong các lớp ĐTKCQ.
8) Tăng cường hợp tác trong ĐTKCQvới các cơ sở ĐT trong và ngoài nước, nhất là đối với hình thức hợp tác ĐTTX để tranh thủ sự giúp đỡ về ĐT, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, trang thiết bị, học liệu, nội dung, chương trình và công nghệ ĐT mới.








