Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 18/04/2007 22:03 (GMT+7)

Đánh giá vật nuôi để chọn lọc

Từ trước tới nay, việc đánh giá vật nuôi để chọn lọc có thể được chia làm 3 thời kỳ:

Thời kỳ đầu tiên(khoảng trước 1850): Thời kỳ này các giống vật nuôi đang được hình thành, người chăn nuôi chỉ đánh giá vật nuôi một cách đơn giản: căn cứ vào một số đặc điểm nào đó của con vật để quyết định giữ con vật đó lại làm giống hạy loại thải.

Phương pháp đánh giá này dễ thực hiện, nhưng thiếu các căn cứ cụ thể.

Thời kỳ giữa(khoảng từ 1850 - 1980): thời kỳ này có nhiều giống vật nuôi đã được hình thành, nhưng chưa thật ổn đình. Người chăn nuôi thường đánh giá vật nuôi qua các tiêu chuẩn giám định.

Con vật được đánh giá qua từng đặc điểm: huyết thống - ngoại hình - khả năng sinh trưởng - khả năng sản xuất (sinh sản, sản xuất sữa…). Sau đó chúng được đánh giá một cách tổng hợp qua các đặc điểm trên.

Các đặc điểm này được chia làm các cấp khác nhau: cấp kỷ lục (cao sản), đặc cấp, cấp I, cấp II, cấp III, cấp IV, ngoại cấp… Để lại làm giống thường là các con vật từ cấp II trở lên.

Mỗi cấp chênh nhau một tỷ lệ phần trăm nhất định hoặc 1 độ chênh lệch chuẩn ( s ).

Các tiêu chuẩn giám định được xây dựng đối với con vật còn non và trưởng thành (đực, cái riêng).

Vật nuôi được giám định vào tháng 10 hàng năm hoặc theo các tháng tuổi nhất định.

Ưu điển của phương pháp đánh giá con vật theo tiêu chuẩn giám định là: Con vật được đánh giá một cách toàn diện và dễ thực hiện.

Nhược điểm của phương pháp đánh giá con vật theo tiêu chuẩn giám định là: bộ di truyền chậm (vì phải đánh giá chọn lọc con vật theo nhiều đặc điểm trong cùng một thời gian, đồng thời chưa sử dụng được các kiến thức về di truyền hiện đại trong công tác giống).

Thời kỳ hiện nay(khoảng từ 1980 đến nay): Hiện nay các giống vật nuôi đã được ổn định, nhất là về ngoại hình. Điều người chăn nuôi quan tâm nhất hiện nay là nâng cao khả năng sản xuất của con vật. Do đó người chăn nuôi thường tập trung đánh giá vật nuôi qua giá trị giống (breeding value) về khả năng sản xuất của chúng. Tất nhiên ngoại hình con vật phải có đặc trưng của giống và đạt ở mức độ nào đó.

Con vật được kiểm tra năng suất qua bản thân (cá thể), anh chị em, đời trước, đời sau và được xác định các giá trị giống qua các chỉ số chọn lọc (selection index) hay giá trị BLUP (Best Linear Unbiase Prediction).

Ưu điểm của phương pháp đánh giá con vật theo giá trị giống là: tiến bộ di truyền nhanh (vì tập trung đánh giá và chọn lọc một số ít tính trạng, đồng thời sử dụng được các kiến thức về di truyền hiện đại trong công tác giống).

Nhược điểm của phương pháp đánh giá con vật theo gía trị giống là phức tạp (vì phải tiến hành kiểm tra năng suất và xác định chỉ số chọn lọc hoặc giá trị BLUP của các con vật nuôi giống).

Ở nước ta, các giống vật nuôi nội đã được hình thành từ lâu nhưng còn nhiều nhược điểm về mặt ngoại hình; các giống vật nuôi ngoại mới được nhập nôi và các giống vật nuôi lai đang được hình thành chưa ổn định. Do đó có thể:

- Triển khai toàn diện rộng việc đánh giá và chọn lọc vật nuôi theo các tiêu chuẩn giám định.

- Nơi nào có điều kiện thì tiến hành đánh giá và chọn lọc vật nuôi theo giá trị giống.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Cuộc thi sáng tác biểu trưng (logo) Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương
Hướng tới chào mừng Đại hội Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, Cuộc thi sáng tác biểu trưng (logo) Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương và biểu trưng (logo) Đại hội đại biểu Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030 được chính thức khởi động từ ngày 18/7/2025.
Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, tập hợp, đoàn kết trí thức KH&CN phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Kể từ khi Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) được thành lập ngày 26/03/1983, Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam đã trải qua 9 kỳ Đại hội, mỗi kỳ Đại hội đã thực sự trở thành những mốc son quan trọng, đánh dấu bước phát triển cả về tư duy chính trị lẫn phương thức hoạt động của toàn hệ thống.
Hành trình phát triển văn hóa, ngôn ngữ, giáo dục bền vững của Viện CLEF
Ngày 9/7, Viện Nghiên cứu Phát triển Văn hóa, Ngôn ngữ và Giáo dục (Viện CLEF) đã tổ chức lễ kỷ niệm 5 năm thành lập. Đây là dịp để nhìn lại hành trình hình thành và phát triển của Viện, là lời tri ân sâu sắc gửi tới các đối tác, chuyên gia và cộng đồng học thuật đã luôn đồng hành, hỗ trợ và tiếp sức cho những bước tiến của Viện trong suốt thời gian qua.