Dân chủ, công khai trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ
Bên cạnh mục tiêu lớn này, việc đổi mới phương thức quản lý còn hướng tới việc tạo bầu không khí dân chủ và công khai trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ KH và CN mà Nhà nước giao.
Ðối với mỗi giai đoạn kế hoạch 5 năm và loại hình nhiệm vụ KH và CN khác nhau, các cơ quan có chức năng lại có phương thức quản lý phù hợp và cứ sau mỗi kế hoạch 5 năm lại được rút kinh nghiệm, cải tiến phương thức quản lý nhằm rút ngắn và tăng tỷ lệ các kết quả nghiên cứu được đưa vào phục vụ sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế - xã hội. Song trong gần 20 năm qua, điểm mốc thật sự đổi mới trong tư duy, trong cơ chế quản lý hoạt động nghiên cứu của các nhiệm vụ KH và CN cấp Nhà nước là từ sau năm 2001, khi Luật Khoa học và Công nghệ có hiệu lực.
Trong giai đoạn từ năm 1991 đến 2000, mới chỉ có ba loại hình nhiệm vụ KH và CN được triển khai thực hiện: Chương trình KH và CN trọng điểm cấp Nhà nước; đề tài độc lập cấp Nhà nước và Xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao KH và CN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và miền núi. Trong hai kế hoạch 5 năm này, cơ chế quản lý từng bước được đổi mới nhằm gắn KH và CN với sản xuất kinh doanh, coi trọng việc chuyển giao kết quả nghiên cứu cho sản xuất kinh doanh. Về việc xây dựng kế hoạch cũng như các giai đoạn trước đây, việc xây dựng kế hoạch hằng năm chủ yếu được thực hiện theo phương thức "hai lên, hai xuống", nghĩa là: Cơ sở đề xuất kế hoạch lên cấp trên có thẩm quyền (lên thứ nhất). Cấp trên xem xét và giao số kiểm tra cho cơ sở (xuống thứ nhất). Cơ sở dựa vào số kiểm tra lập kế hoạch chi tiết và trình cấp trên (lên thứ hai). Cấp trên xem xét và giao kế hoạch cho cơ sở thực hiện (xuống thứ hai). Phương thức làm kế hoạch tuy chưa có nhiều thay đổi, nhưng trong khi xây dựng cũng như xem xét kế hoạch nghiên cứu, triển khai, các cơ quan quản lý cũng như các tổ chức KH và CN đã ngày càng quan tâm hơn đến địa chỉ ứng dụng các kết quả nghiên cứu. Cũng trong giai đoạn này, về phương diện quản lý đã có một bước tiến mới là ngoài việc triển khai các đề tài nghiên cứu như những kế hoạch 5 năm trước đây, một loại hình nhiệm vụ KH và CN mới, các dự án sản xuất thử nghiệm - được triển khai. Loại hình dự án này là một bước tiếp theo để hoàn thiện các công nghệ được tạo ra từ các đề tài nghiên cứu trước khi đưa vào sản xuất. Ðịa bàn triển khai hoàn thiện công nghệ là các cơ sở sản xuất kinh doanh. Dự án sản xuất thử nghiệm là một bước tiến trong quản lý nhằm tạo điều kiện để các tổ chức KH và CN cho ra đời các công nghệ hoàn chỉnh chuyển giao cho sản xuất, gắn quá trình nghiên cứu với sản xuất kinh doanh, gắn trách nhiệm của các tổ chức KH và CN và cơ sở sản xuất kinh doanh triển khai dự án với việc đưa kết quả nghiên cứu phục vụ sản xuất kinh doanh, vì Nhà nước chỉ hỗ trợ 30% kinh phí và thu hồi lại từ 60 đến 100% kinh phí hỗ trợ.
Trong giai đoạn này, có hai đổi mới được coi là quan trọng: Không cào bằng việc cấp kinh phí cho các nhiệm vụ KH và CN. Những đề tài thật sự cần khoản kinh phí lớn phục vụ cho công tác nghiên cứu thì được cấp kinh phí lớn hơn nhiều so với các đề tài khác. Cho đến năm 1990, hầu hết trang thiết bị trong các phòng thí nghiệm của nước ta đều có xuất xứ từ các nước Ðông Âu và rất lạc hậu. Trước tình hình đó, Ủy ban Khoa học Nhà nước sau đó là Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ KH và CN) đã thỏa thuận cùng Bộ Tài chính về khoản chi mua sắm trang thiết bị hiện đại phục vụ việc triển khai các đề tài nghiên cứu. Việc làm này đã góp phần thay đổi trình độ nghiên cứu của nhiều tổ chức KH và CN.
Từ sau khi Luật KH và CN có hiệu lực, Bộ KH và CN đã nhanh chóng tổ chức triển khai thực hiện các quy định của luật và trong thẩm quyền của mình, tiếp tục quá trình đổi mới việc quản lý, tổ chức triển khai các nhiệm vụ KH và CN. Trên cơ sở đó, hướng dẫn các bộ, ngành và các tổ chức KH và CN thực hiện, đó là: Dân chủ và minh bạch hóa quá trình xác định nhiệm vụ, xây dựng kế hoạch nghiên cứu thông qua việc tổ chức tuyển chọn (từ 2001 đến nay) các tổ chức và cá nhân chủ trì các nhiệm vụ KH và CN cấp Nhà nước. Gắn KH và CN với sản xuất kinh doanh. Tất cả các đề tài KH và CN phải có địa chỉ ứng dụng, phải có sự tham gia, xác nhận của cơ sở sau này sẽ ứng dụng kết quả nghiên cứu và trong các hội đồng xem xét các nhiệm vụ KH và CN đều có thành phần là các doanh nghiệp để xem xét tính phù hợp và tính khả thi khi kết quả nghiên cứu được ứng dụng sau này.
Qua nhiều năm theo dõi chúng tôi thấy, nhiều nhiệm vụ KH và CN có sự tham gia của doanh nghiệp hay do doanh nghiệp chủ trì thường được đưa nhanh vào thực tiễn sản xuất kinh doanh. Từ đó, Bộ KH và CN đã kiến nghị và được Thủ tướng Chính phủ cho phép triển khai hai loại hình nhiệm vụ KH và CN mới dành riêng cho các doanh nghiệp chủ trì thực hiện. Ðó là: Các đề tài nghiên cứu theo Nghị định 119/1999/NÐ-CP phục vụ cho việc đổi mới công nghệ và phát triển sản phẩm mới của các doanh nghiệp vừa và nhỏ; dự án KH và CN do các doanh nghiệp lớn (đã trúng thầu các dự án đầu tư) chủ trì bao gồm nhiều nhiệm vụ KH và CN. Doanh nghiệp chủ trì huy động các nhà khoa học ở các viện, trường và các doanh nghiệp khác tổ chức triển khai các nhiệm vụ KH và CN phục vụ việc thi công dự án đầu tư.
Năm 2001, Bộ KH và CN đã tổ chức hình thức hợp tác mới là hợp tác nghiên cứu chung, đôi bên cùng đóng góp và cùng có lợi theo con đường Nghị định thư. Hình thức hợp tác mới này không chỉ được các nhà khoa học Việt Nam, mà ngay cả các đối tác nước ngoài hoan nghênh và cho rằng, đây là xu hướng phù hợp xu thế chung của hội nhập quốc tế toàn cầu, không chỉ về kinh tế, mà cả trong nghiên cứu KH và CN.
Hình thức cấp phát kinh phí và quyền chủ động của các chủ nhiệm đề tài trong chi tiêu là vấn đề nổi cộm trong gần hai thập niên qua và cũng là vấn đề mà Bộ KH và CN cùng Bộ Tài chính liên tục có những cải tiến qua từng giai đoạn. Song, phải đến kế hoạch 5 năm 2006-2010 mới được coi là có những thay đổi: Một phần kinh phí để triển khai nhiệm vụ KH và CN được khoán. Chủ nhiệm đề tài được toàn quyền điều phối kinh phí sao cho phù hợp tình hình thực tế khi triển khai đề tài. Năm tài chính và năm kế hoạch là một trở ngại gây nhiều khó khăn cho cả cơ quan làm kế hoạch cũng như các nhà khoa học. Ðể khắc phục tình trạng này, hiện nay, Quỹ Phát triển KH và CN quốc gia đã ra đời, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học trong hoạt động nghiên cứu triển khai.
Với cách đổi mới phương thức quản lý các nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo tinh thần của Luật Khoa học và Công nghệ nói trên, chúng tôi hy vọng sẽ tạo được bầu không khí dân chủ và công khai trong hoạt động KH và CN, khuyến khích nhà khoa học đưa nhanh kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất và đời sống.








