Dân chủ cơ sở: Một số tiếp cận lý luận và thực tiễn
1. Dân chủ cơ sở, một thành tố của dân chủ chính trị
Dân chủ là giá trị chung của nhân loại. Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy: khái niệm "dân chủ" được hình thành vào trước Công nguyên, có xuất xứ từ Hy Lạp thời cổ đại. Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp và có nhà nước, mọi hình thức dân chủ đều mang tính giai cấp; dân chủ mang nghĩa dân chủ chính trị. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam ,dân chủ là "hình thức tổ chức thiết chế chính trị xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế nhất định . .."(Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam,1995, tr. 653).
Dân chủ có vị thế quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, dân chủ chỉ có thể được xác lập và thể chế hóa trong điều kiện lịch sử nhất định. Hiệu quả phát huy dân chủ là tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể, chịu tác động bởi tính giai cấp, tính lịch sử, đặc điểm truyền thống dân tộc, tính chất thời đại, v.v…
Quá trình phát triển của dân chủ diễn ra như là một dòng chảy liên tục trong lịch sử, rất sinh động và phức tạp, luôn được nhiều học giả và nhà hoạt động chính trị trên thế giới luận bàn. Quá trình ấy đã được khái quát thành những hình thức và được biểu đạt bằng các khái niệm khoa học, như: dân chủ đại diện (representative democracy), dân chủ gián tiếp (lndirect democracy), dân chủ trực tiếp (direct democracy), dân chủ tham gia (participatory democracy), dân chủ thảo luận (deliberative democracy), dân chủ cơ sở (grassroots democracy), v.v…
Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tếviệc giải quyết đúng đắn vấn đề dân chủ đang được đặt ra như một nền tảng cơ bản, cần thiết đối với sự phát triển bền vững ở mọi quốc gia, "dân chủ và phát triển đã trở thành một quan hệ nhân quả có tính phổ biến..." (Hồ Văn Thông, 2007, tr. 54). Để những giá trị dân chủ phát huy vai trò động lực cho sự phát triển, đòi hỏi khái niệm dân chủ phải được nhận diện một cách khoa học và phải được thể chế hóa thành những quy định đúng đắn.
Tăng cường dân chủ là xu hướng phát triển tất yếu đối với nền chính trị của các quốc gia trên thế giới hiện nay. Thực hiện dân chủ cơ sở là giải quyết đúng đắn vấn đề dân chủ đang được đặt ra: mở rộng dân chủ và phát huy cao độ quyền làm chủ trực tiếp của người dân từ cơ sở, đẩy mạnh chiều sâu dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nói đến dân chủ cơ sở là nói đến vị thế của người dân ở cơ sở, trước hết và chủ yếu là các tầng lớp nhân dân lao động, những người lao động chân tay và lao động trí óc đang hàng ngày làm ra mọi của cải vật chất và của cải tinh thần để bảo đảm cho xã hội tồn tại và phát triển. Nhân dân lao động là những người trực tiếp đối đầu với thách thức của đời sống, luôn nhạy cảm với mâu thuẫn nảy sinh trong đời sống hiện thực; nhân dân lao động cũng là lực lượng trực tiếp giải quyết những mâu thuẫn ấy để đảm bảo cho xã hội ổn định, phát triển vả phát triển bền vững ...
Là một thành tố của dân chủ chính trị, dân chủ cơ sở được xác lập, thể chế hóa và phát huy như thế nào là tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể. Chẳng hạn, tại Trung Quốc, quá trình thực hành dân chủ cơ sở đã diễn ra khá rầm rộ trên địa bàn nông thôn từ đầu thập niên 1980. Dân chủ cơ sở ở đây được cấu thành bởi bốn yếu tố cơ bản: dân chủ bầu cử, dân chủ quyết sách, dân chủ quản lý và dân chủ giám sát (Lê Minh Nghĩa, 2007, tr. 267-268).
Ở Việt Nam , Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm thận thức sâu sắc vai trò to lớn của dân chủ và luôn chú trọng thực hiện dân chủ từ cơ sở. Ngày 2/9/1945 Người đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời đặt nền móng xây dựng một nền dân chủ mới cho nhân dân Việt Nam...
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "nước ta là nước dân chủ", "bao nhiêu lợi ích đều vì dân", "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"... (Hồ Chí Minh, 2000, tập 5, tr. 698) và chỉ rõ: "thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn" (Hồ Chi Minh, 2000, tập 12, tr. 249).
Tư tưởng về "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến trong bài báo Dân vận,phát hành vào ngày 15/10/1949, Người viết: "Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rằng: việc đó là lợi ích cho họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được.
Điểm thứ hai là bất kỳ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành.
Trong lúc thi hành phải theo dõi, đôn đốc, khuyến khích.
Khi hoàn thành xong phải cùng dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng".
Từ thực tiễn ,cách mạng Việt Nam : nhất là trong những năm đổi mới, Đảng ta tiếp tục nhận thức một cách sâu sắc thêm: vấn đề dân chủ trước tiên và trọng yếu là xuất phát từ cơ sở. Ngày 20/6/1996, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) ra Chỉ thị 69/CT/TW yêu cầu sớm nghiên cứu thể chế hóa phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định rõ một nhiệm vụ để thực hiện định hướng thứ 9 về Đại đoàn kết dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, là: xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với các chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước... Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, khẳng định: khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Tiếp đó, Quốc hội và Chính phủ đã thể chế hóa trong nhiều văn bản pháp quy về thực hiện Quy chế dân chủ cho một số loại hình cơ sở, như: Nghị quyết số 45/1998/NQ UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ; Chính phủ ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP (ngày 11/5/1998) về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Nghị định số 7/1999/NĐ-CP (ngày 13/2/1999) về thực hiện dân chủ cơ sở trong các doanh nghiệp nhà nước và các cơ quan hành chính, v.v…
Ngày 7/7/2003, Chính phủ ra Nghị định số 79/NĐ-CP, ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, thay thế Nghị định số 29/1998/NĐ-CP. Ngày 18/4/2005 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ban hành Quy chế Giám sát đầu tư của cộng đồng. Ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Pháp lệnh này quy định rõ 11 nội dung phải công khai để nhân dân biết (Điều 5, Chương 2) bằng 3 hình thức công khai (Điều 6, Chương 2); những nội dung, hình thức nhân dân bàn và quyết định trực tiếp (Điều 10, Mục 1, Chương 3); những nội dung, hình thức nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định (Mục 2, Chương 3); trách nhiệm (của ủy ban nhân dân cấp xã, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, của Trưởng thôn. Tổ trưởng tổ dân phố) tổ chức thực hiện những nội dung nhân dân bàn và quyết định (Mục 3, Chương 3); những nội dung, hình thức để nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định (Điều 19, Điều 20, Chương 4); những nội dung nhân dân giám sát (Điều 23; Chương 5), trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện giám sát của nhân dân (Điều 25, Chương 5). Pháp lệnh này cũng quy định rõ những nguyên tắc thực hiện dân chủ ở cấp xã (1. Bảo đảm trật tự, kỷ cương, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; 2. Bảo đảm quyền của nhân dân được biết, tham gia ý kiến, quyết định, thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã; 3. Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; 4. Công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp xã; 5. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước (Điều 2));
Trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã (1 .Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã; 2. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cùng cấp trong việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã; 3. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận ở cấp xã có trách nhiệm giám sát việc thực hiện và tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện dân chủ ở cấp xã (Điều 3)); và Các hành vi bị nghiêm cấm (1 .Không thực hiện hoặc làm trái các quy định về thực hiện dân chủ ở cấp xã; 2. Trù dập người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị có liên quan đến việc thực hiện dân chủ ở cấp xã; 3. Bao che, cản trở hoặc thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiêu nại, tố cáo, kiến nghị có liên quan đến việc thực hiện dân chủ ở cấp xã; 4. Lợi dụng việc thực hiện dân chủ ở cấp xã để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (Điều 4)) ...
Như vậy, từ Chỉ thị 30-CT/TW (ngày 18/2/1998) của Bộ Chính trị (về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được cụ thể bằng Nghị định 29/NĐ-CP (ngày 1/15/1998) và Nghị định số 79/NĐ-CP (ngày 7/7/2003) của Chính phủ, đến Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 (ngày 20/4/2007) của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là những bước phát triển trong nhận thức về dân chủ cơ sở và quá trình thể chế hóa quan điểm đúng đắn, tư tưởng chiến lược của Đảng về dân chủ ở cơ sở.
2. Dân chủ cơ sở trong đời sống xã hội
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và phát triển thể chế chính trị cộng hòa xã hội chủ nghĩa. Quá trình này nhằm tạo ra một nền chính trị dân chủ của sự phát triển ở nước ta, hướng tới mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh". Nền dân chủ ấy phải đảm bảo gắn liền dân chủ với công bằng và tiến bộ xã hội được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Nền dân chủ ấy phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm, phải loại trừ được những biến thái tiêu cực, những hành vi lợi dụng dân chủ và những ý đồ phá hoại dân chủ, v.v… Việc thực hiện dân chủ ở cơ sở ngày càng có vai trò và ý nghĩa to lớn trong đời sống xã hội. Tiềm năng to lớn về sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của dân cần phải được khơi dậy, phát huy bằng sự lãnh đạo đúng hướng và những hình thức tổ chức phù hợp, thực sự dân chủ. Một khi thiếu sự lãnh đạo đúng hướng, thiếu những hình thức tổ chức phù hợp, thực sự dân chủ, thì những tiềm năng và sức mạnh ấy sẽ vận động một cách tự phát, hoặc sẽ bị mai một…
Sau khi Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 30-CT/TW (ngày 18/2/1998) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, khẳng định: khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở; Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp quy về thực hiện Quy chế dân chủ nhằm đảm bảo cho người dân thực hiện quyền làm chủ của mình trực tiếp từ cơ sở tại địa bàn cư trú, nơi làm việc và đơn vị công tác. Theo đó, nhiều địa phương, đơn vị sản xuất - kinh doanh, cơ quan hành chính -sự nghiệp, v.v… đã tích cực triển khai thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, xây dựng được những quy định cụ thể để thực hiện dân chủ trong nhiều lĩnh vực hoạt động của mình.
Quá trình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở đơn vị sản xuất - kinh doanh và cơ quan hành chính - sự nghiệp tạo được nhiều biến chuyển chất lượng của những quy định về việc thảo luận lấy ý kiến tập thể trong việc xây dựng kế hoạch công tác và chương trình hành động; những quy định về tiếp dân và giải quyết khiêu nại, tố cáo; những quy định về công khai tài chính, quản lý và sử dụng tài sản cơ quan; những quy định về đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng, nâng lương, khen thưởng, kỷ luật, phúc lợi xã hội và các chế độ, chính sách có liên quan đến trách nhiệm và quyền lợi của người lao động; v.v… Hội nghị công nhân viên chức ngày càng thể hiện vai trò là diễn đàn thực hiện dân chủ trực tiếp của cán bộ, công nhân, viên chức. Người lao động không chỉ góp ý xây dựng cơ quan, đơn vị mà còn chất vấn thủ trưởng về những vấn đề đang đặt ra ở cơ quan, đơn vị, yêu cầu thủ trưởng làm rõ để tạo sự thống nhất về tư tưởng của tập thể. Quá trình cụ thể hóa phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" từng bước mang lại những kết quả tích cực: nâng cao trách nhiệm của thủ trưởng trong lãnh đạo, quản lý, điều hành công việc; khơi dậy và phát huy sức mạnh của cán bộ, công nhân, viên chức trong việc tham gia giải quyết những vấn đề liên quan đến nhu cầu, cuộc sống của công dân, tạo động lực để thúc đẩy sự phát triển của cơ quan, đơn vị.
Quá trình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn đã và đang đem lại kết quả về nhiều mặt: cải thiện điều kiện tiếp cận thông tin của người dân; khuyến khích người dân tham gia thảo luận, góp ý kiến vào việc quyết định cũng như quá trình thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, kế hoạch xây dựng và phát triển ở địa phương... ; thúc đẩy những nỗ lực của mọi tầng lớp dân cư nông thôn tham gia các phong trào hành động cách mạng, như phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, phong trào xây dựng quỹ vì người nghèo, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, phong trào xóa đói giảm nghèo và chống tái nghèo, chương trình xóa nhà dột nát cho người nghèo, phong trào quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; tích cực thực hiện chủ trương xã hội hóa trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong các lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng, giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe cộng đồng; v.v… Quá trình thực hiện dân chủ cơ sở giúp cho chất lượng dân chủ tại các hội nghị nhân dân (thôn/ấp, tổ dân cư,...) được nâng lên với các nội dung thiết thực; đem lại hiệu quả rõ rệt trong giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân; động viên người dân tích cực tham gia phòng chống tội phạm và bài trừ tệ nạn xã hội, v.v…
Cơ chế phát huy dân chủ cơ sở ở nước ta được thực hiện thông qua luật pháp với nhiều biện pháp triển khai thiết thực đang tạo nên những chuyển biến tích cực, thực sự tỏ rõ là một trong những động lực của đổi mới và phát triển của xã hội, đồng thời cũng mang lại nhiều bài học kinh nghiệm quan trọng. Ở đây, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình dân chủ cơ sở cũng đang bộc lộ khá rõ những khuyết điểm và hạn chế trong nhận thức lý luận và trong hoạt động thực tiễn, chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi bức xúc trong quá trình phát triển của đất nước trên đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Đến nay, văn bản pháp quy về dân chủ cơ sở tuy đã có cho một số loại hình, nhưng vẫn còn thiếu ở một số lĩnh vực; vẫn có những quy định chưa sát với thực tế mà việc bổ sung, điều chỉnh thường chậm trễ; vẫn còn những vấn đề đang đặt ra liên quan trực tiếp đến thực hiện dân chủ cơ sở, như cơ chế phản biện xã hội, giám sát xã hội, luật về hội, cơ chế dân chủ trong hoạt động lý luận và khoa học xã hội, v.v…
Nhiều văn bản pháp quy về dân chủ cơ sở tuy đã được triển khai rộng khắp, nhưng mức độ thành công đang còn những hạn chế nhất định. Thực tế cho thấy: tiến độ và chất lượng của việc thực thi dân chủ cơ sở là tùy thuộc vào quá trình tổ chức thực hiện cụ thể ở từng địa phương, đơn vị, bị chi phối bởi trình độ nhận thức về dân chủ cơ sở và ý thức trách nhiệm thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Có những địa phương, đơn vị do trình độ, năng lực thực hiện của cán bộ cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu, nên tổ chức triển khai còn lúng túng, chậm trễ, tiến hành một cách hình thức, không xây dựng được những quy định, nội quy, quy ước phù hợp với đặc điểm cụ thể, vi phạm tính công khai minh bạch, thiếu sự kiểm tra, điều chỉnh, bổ sung kịp thời với những chuyển biến của thực tế đời sống. Vẫn có những vụ việc nảy sinh do chính quyền địa phương thiếu sự bàn bạc, trao đổi dân chủ với nhân dân, chưa coi trọng thích đáng quyền lợi cơ bản của nhân dân. Kết quả của việc thực hiện dân chủ cơ sở còn chi phối bởi đặc điểm địa lý - dân cư, trình độ dân trí, văn hóa chính trị của công dân trên mỗi địa bàn và trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn cụ thể...
Kết luận
Dân chủ là nền tảng cho sự độc lập và giàu mạnh của quốc gia. Thực hiện tốt dân chủ cơ sở là giải quyết đúng đắn vấn đề dân chủ đang được đặt ra. Cơ chế phát huy dân chủ cơ sở ở nước ta tuy đã tạo được chuyển biến tích cực hòa vào động lực của đổi mới và phát triển của xã hội, nhưng cũng đang bộc lộ những vấn đề cần được tiếp tục nỗ lực nghiên cứu, làm rõ hơn nữa về phương diện lý luận và phương diện thực tiễn: cần chú trọng khảo sát thực địa, nhận diện đúng những cơ hội và thách thức về dân chủ cơ sở; tạo điều kiện thúc đẩy quá trình dân chủ cơ sở, phát huy cao độ quyền làm chủ trực tiếp của người dân từ cơ sở, đẩy mạnh chiều sâu dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.








