Ðãi ngộ nhà khoa học thông qua cơ chế, chính sách
Nhờ có Nghị định 80 mà các nhà khoa học (không phân biệt lứa tuổi, đơn vị công tác) có khả năng làm giàu bằng chính kết quả nghiên cứu của mình, được hưởng mức thù lao từ 20 đến 35% giá trị kết quả khoa học và công nghệ. Chỉ sau một thời gian ngắn thành lập, doanh nghiệp khoa học và công nghệ (DN KH và CN), Công ty trách nhiệm hữu hạn Thoát nước và phát triển đô thị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã ký một hợp đồng trị giá 74 tỷ đồng. Kỹ sư Hoàng Ðức Thảo, Giám đốc công ty cho chúng tôi biết: Nhờ có Nghị định 80 mà tôi với tư cách là tác giả công trình đã được hưởng 5,5 tỷ đồng khi triển khai hợp đồng nói trên.
Về mặt xã hội, từ chính kết quả nghiên cứu đó của nhà khoa học, thông qua các DN KH và CN đã và sẽ tạo ra những ngành nghề mới, hàng trăm, hàng nghìn người có công ăn việc làm, nhiều hộ thoát nghèo, trong đó có không ít các hộ ở vùng sâu, vùng xa.
Nhờ tham gia triển khai kết quả nghiên cứu của mình vào sản xuất, nhà khoa học không chỉ hoàn thiện, nâng cao kết quả nghiên cứu của mình, được phép làm việc trong các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia có liên quan mà còn học hỏi nhiều kiến thức về thị trường, về kinh doanh; điều quan trọng nữa là làm cho khoảng cách giữa phòng thí nghiệm và xưởng sản xuất chỉ trong "gang tấc", rút ngắn tối đa thời gian từ nghiên cứu đến ứng dụng vào sản xuất. Với những điểm tích cực của Nghị định 80, hy vọng trong một thời gian không lâu sẽ có rất nhiều DN KH và CN ra đời (chưa kể nhiều doanh nghiệp trước khi có Nghị định 80 đã đủ điều kiện trở thành DN KH và CN), mặc dù đến thời điểm hiện nay cả nước mới có ba DN KH và CN.
Tuy vậy, trong quá trình theo dõi việc triển khai Nghị định 80 ở cơ sở, nhất là trong "Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện Nghị định số 80/2007/NÐ-CP, ngày 19-5-2007 của Chính phủ về doanh nghiệp khoa học và công nghệ" (Thông tư liên tịch) có một số nội dung chưa rõ ràng, đang là những rào cản trong quá trình hình thành DN KH và CN. Xin nêu bốn vấn đề sau:
Thứ nhất, cụm từ "Doanh nghiệp khoa học và công nghệ". Nhìn vào mẫu Giấy chứng nhận DN KH và CN, chúng ta không thấy có thời hạn (như bằng lái ô-tô, thẻ nhà báo). Như vậy không có khái niệm thu hồi giấy chứng nhận. Sẽ có trường hợp sau khi xin được giấy chứng nhận doanh nghiệp không hoạt động (với nhiều lý do khác nhau), vẫn không bị thu hồi. Ðối với một doanh nghiệp chỉ sản xuất các sản phẩm hình thành từ kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước thì cụm từ "Doanh nghiệp khoa học và công nghệ" hoàn toàn chính xác. Tuy vậy trên thực tế có doanh nghiệp sản xuất nhiều mặt hàng với công nghệ thấp, phổ thông, đơn giản, nhưng trong đó chỉ có một sản phẩm làm ra bằng công nghệ cao từ một kết quả khoa học và được công nhận là Doanh nghiệp KH và CN (tất nhiên sản phẩm nói trên thỏa mãn các yêu cầu nêu trong Thông tư liên tịch). Nhiều doanh nghiệp cho biết, họ sẽ lợi dụng kẽ hở này để quảng bá với khách hàng, tất cả các sản phẩm khác của họ đều được sản xuất bằng công nghệ cao, tạo lợi thế trong việc cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các doanh nghiệp khác không có giấy chứng nhận DN KH và CN. Bởi không phải khách hàng nào cũng có cơ hội được xem trong Giấy chứng nhận DN KH và CN: "Danh mục sản phẩm hàng hóa hình thành từ kết quả KH và CN".
Thứ hai, thời hạn nộp hồ sơ 30 ngày kể từ khi doanh nghiệp được thành lập. Tại phần II, mục 1.1, Thông tư liên tịch nêu rõ: "Ðăng ký chứng nhận DN KH và CN tại Sở KH và CN địa phương, nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ khi doanh nghiệp được thành lập".
Sau khi "vật lộn" với các thủ tục hành chính để có được giấy phép thành lập doanh nghiệp. Chưa kịp nghỉ ngơi, doanh nghiệp phải huy động tổng lực sức người, sức của để hoàn thành thủ tục nộp hồ sơ xin chứng nhận doanh nghiệp KH và CN, nộp cho Sở KH và CN trong vòng 30 ngày. Việc làm thủ tục bao gồm các phần việc: như chứng minh quyền sở hữu, sử dụng công nghệ, đăng ký quyền sở hữu trí tuệ; đàm phán giữa nhà khoa học và doanh nghiệp về tỷ lệ hưởng lợi từ kết quả KH và CN; quy mô phát triển... chắc chắn không thể hoàn thành trong vòng 30 ngày.
Nhiều nhà khoa học, nhà đầu tư thắc mắc: Lấy căn cứ gì để định ra khoảng thời gian đó, sao không là sáu tháng hay một năm. Liệu sau 30 ngày, nếu doanh nghiệp không kịp hoàn thành thủ tục để nộp cho Sở KH và CN liệu còn cơ hội để trở thành DN KH và CN hay không, những điều này không thấy nói trong Thông tư liên tịch.
Thứ ba, kẽ hở phát sinh giấy phép con. Tại phần II, mục 1.3 của Thông tư liên tịch có nêu: "Chứng minh việc sử dụng hoặc sở hữu hợp pháp các kết quả KH và CN (kèm theo các văn bản xác nhận quyền sử dụng hoặc sở hữu hợp pháp các kết quả KH và CN)". Chúng tôi đã gặp một tình huống khi nhà khoa học đến Sở KH và CN, khẳng định mình chính là tác giả của đề tài nghiên cứu được dùng thành lập DN KH và CN, nhưng cán bộ của Sở KH và CN coi đó chưa đủ điều kiện rồi đưa ra các loại "giấy phép con": buộc nhà khoa học đó phải đi đăng ký quyền tác giả (mất nhiều tháng mới xong), nếu không, phải có hội đồng để chứng nhận nhà khoa học đó chính là tác giả của công trình nghiên cứu nói trên... Những loại giấy con này sẽ phát sinh khác nhau đối với mỗi Sở KH và CN, sẽ không có hình thức thống nhất. Có Sở KH và CN dự định sẽ thành lập hội đồng khoa học để xem doanh nghiệp đó có trở thành DN KH và CN hay không?
Chúng tôi kiến nghị Bộ KH và CN cần mở các lớp tập huấn cho cán bộ cấp cơ sở đảm nhiệm việc cấp giấy chứng nhận DN KH và CN để có hướng dẫn xử lý các tình huống cụ thể, xây dựng quy trình cấp giấy chứng nhận DN KH và CN thống nhất trên cả nước. Ðồng thời mở các lớp tập huấn theo nhu cầu của doanh nghiệp, để họ biết cách lập hồ sơ cho loại hình doanh nghiệp mới mẻ này. Những thông tin hướng dẫn làm hồ sơ đã phát trên mạng còn quá sơ sài so với những tình huống xảy ra trong thực tế của mỗi bộ hồ sơ đăng ký DN KH và CN.
Thứ tư, ai làm chủ DN KH và CN? Chúng tôi có dịp tìm hiểu một số hồ sơ đăng ký DN KH và CN, và nhận thấy không có tên nhà khoa học (tác giả của đề tài nghiên cứu dùng để đăng ký thành lập DN KH và CN) trong danh sách thành viên sáng lập hay hội đồng quản trị.
Sở dĩ có tình trạng như vậy là theo quy định tại Ðiều 20 của Luật Cán bộ, công chức (năm 2008) nêu rõ những việc cán bộ, công chức không được làm: "Ngoài những quy định không được làm tại Ðiều 18 và Ðiều 19 của luật này, cán bộ, công chức còn không được làm những việc liên quan sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sự quy định tại Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và những việc khác theo quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền".
Ðiều 37, Luật Phòng, chống tham nhũng nêu rõ, cán bộ, công chức không được làm các việc sau đây: "... Thành lập, tham gia thành lập, hoặc tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác...".
Thật bất hợp lý khi chính nhà khoa học nghiên cứu ra công nghệ, sản phẩm hình thành DN KH và CN lại không được tham gia ban lãnh đạo doanh nghiệp, hội đồng quản trị để hoạch định chính sách, chiến lược phát triển của doanh nghiệp, vì lý do nhà khoa học đó đang là cán bộ, công chức Nhà nước. Một nhà khoa học tâm sự với chúng tôi: Nhà khoa học hiện là cán bộ, công chức Nhà nước, tham gia DN KH và CN là hình thức đi làm thuê cho chính kết quả nghiên cứu của mình (cho dù được hưởng lợi nhuận rất cao), bởi về mặt "chính danh" mình có quyền gì đâu?
Nghị định 80 thể hiện quyết tâm của Ðảng, Nhà nước muốn phát triển các DN KH và CN để đẩy nhanh quá trình ứng dụng kết quả nghiên cứu lĩnh vực mũi nhọn vào sản xuất và đời sống, để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Từ những điều phân tích nói trên, rất mong các cấp có thẩm quyền xem xét, chỉnh sửa một số nội dung của Nghị định 80 sao cho có nhiều DN KH và CN, trong đó nhà khoa học hiện là cán bộ, công chức Nhà nước (có công trình nghiên cứu tạo ra sản phẩm của các doanh nhiệp đó) là một trong những người chủ thật sự.








