Đại học cần chủ động mở rộng tri thức
Có lẽ nếu đặt vấn đề thay đổi cũng đã quá muộn mà phải là một cuộc cách mạng trong giáo dục đại học nước nhà.
Thế giới đổi thay và giáo dục đại học cũng phải thay đổi
Cách đây ba năm, trước khi nổ ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, ít ai ngờ giờ đây lại có quá nhiều thách thức đặt ra cho các trường đại học như bây giờ. Thế giới mà chúng ta đang sống hiện phải đối mặt với những nguồn lực mới, những tiền đề và giá trị mới. Điều này đặt ra cho giáo dục đại học những cách nhìn nhận mới cho sự tồn tại của chính mình và trách nhiệm của mình đối với những thay đổi sâu sắc của xã hội.
Nếu chưa vội bàn đến những hệ tư tưởng mới, những ngành nghề mới như năng lượng tái tạo, môi trường... phát sinh từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chỉ tính riêng đến việc giảng dạy làm sao để sinh viên ra trường tìm được việc làm cũng là một thách thức không nhỏ đối với các trường đại học.
Chưa bao giờ mà sinh viên ra trường lại khó tìm việc hay nói đúng hơn phải cạnh tranh khốc liệt như hiện nay để có được việc làm đúng với ngành nghề đào tạo. Sinh viên giờ đây phải đối mặt với những điều kiện lương bổng mới, những quy định mới và một nguồn nhân lực chất lượng cao từ các nước phát triển có xu hướng quay về các nước đang phát triển như Việt Nam chúng ta để tìm kiếm cơ hội. Thậm chí sinh viên phải đối mặt với những thay đổi to lớn trong cách tiếp cận ngành nghề và những kiến thức mới ra đời kể từ sau cuộc khủng hoảng toàn cầu.
Trường đại học phải làm gì trước thay đổi mang tính bước ngoặt như thế? Thay đổi là điều đương nhiên mà ai cũng rất dễ có câu trả lời. Nhưng thay đổi phải bắt đầu từ đâu?
Mở rộng tri thức
Có lẽ những nhà lãnh đạo ngành giáo dục ai cũng có thể dễ dàng đưa ra giải pháp. Rằng giáo dục đại học phải thay đổi, phải đột phá, phải được tự chủ. Nhưng nhìn vào những quy chế mới đây trong điều lệ trường đại học mà Chính phủ mới ban hành cũng đủ cho thấy mức độ của lời nói và việc làm đi đôi với nhau như thế nào. Chẳng hạn quy định mới bắt buộc trường đại học muốn có ba hiệu phó trở lên phải trình Bộ trưởng? Vậy mà là thay đổi ư? Cách tư duy theo kiểu kiềm hãm này chỉ có giết chết giáo dục đại học mà thôi.
Đáng lý thay đổi mang tính bản chất phải bắt đầu từ việc giáo dục đại học Việt Nam được phép tự do mở rộng tri thức. Nhưng thay đổi bằng con đường mở rộng tri thức không bao giờ dễ dàng cho dù đó là ở bất kỳ trường đại học nào trên thế giới.
Muốn mở rộng tri thức, trường đại học phải được đặc quyền về mặt học thuật. Trong báo cáo "Giáo dục đại học - cao đẳng Việt Nam: Khủng hoảng và đối phó" thuộc khuôn khổ Asia Programs của Trường lãnh đạo Kennedy thuộc Đại học Harvard, Thomas J. Vallely và Ben Wilkinson (2009) đã đánh giá về tự do học thuật ở Việt Nam như sau: "Ngay cả khi so sánh với Trung Quốc, các trường đại học ở Việt Nam cũng thiếu động lực tri thức ở một mức độ đáng kể. Ngay cả khi các trường đại học đang dần được phép nới lỏng hơn, vẫn có một mạng lưới các kiểm soát và kiềm chế chính thức và không chính thức để đảm bảo rằng các trường đại học vẫn tiếp tục suy tàn về tri thức trong khi các cuộc tranh luận trong xã hội ngày càng sôi nổi hơn".
Nói như thế có lẽ những nhà kiến trúc ra nền giáo dục nước ta sẽ không đồng ý. Họ cho rằng chúng tôi đâu cấm đoán các trường đại học tự do về mặt học thuật, nghị quyết này thông tư nọ cũng đâu có cấm đoán tự do học thuật? Nếu được hỏi thì tôi đoán chắc bất kỳ cấp lãnh đạo nào cũng trả lời như thế.
Chân lý không qua thử thách là con đường dễ và ngắn nhất để giết chết giáo dục đại học
Trong bài diễn văn nhậm chức vào ngày 1/7/2007, bà Drew G. Faust, hiệu trưởng thứ 28 của Đại học Harvard đã nhấn mạnh: "Chúng ta sáng tạo không chỉ tri thức mà còn sáng tạo ra những câu hỏi và những hiểu biết bắt nguồn từ chủ nghĩa hoài nghi, từ sự không ngừng đặt câu hỏi chứ không phải từ sự thống trị của những tri thức thông thái được chấp nhận không thông qua thử thách. Hơn bất cứ một tổ chức nào khác trong xã hội, cốt lõi của các trường đại học là tầm nhìn dài hạn và những quan điểm phản biện. Điều này có được chính là vì đại học không phải là sở hữu của riêng hiện tại".
Giáo dục đại học Việt Nam , quá rõ, chỉ là sản phẩm của một nhóm quan điểm của hiện tại và thậm chí của quá khứ chứ không phải của thời đại. Các chương trình khung bắt buộc của nhiều môn học khuôn mẫu áp dụng đại trà ở hàng loạt các trường đại học đã ngày càng chẳng những cho thấy sự lạc hậu, lỗi thời mà đang ngày càng dập tắt những khao khát kiến thức mới của sinh viên mới bước vào những năm đầu của bậc đại học.
Nói chi đến kiến thức, ngành giáo dục còn bắt buộc một luận án tiến sĩ phải viết bản tóm tắt luận án theo khuôn mẫu nào, bao nhiêu trang mới đúng chuẩn. Vì vậy con đường tiến đến tri thức và sáng tạo là một thách thức quá lớn cho giáo dục đại học nước nhà.
Rèn luyện kỹ năng và tính cách
Chất lượng nghèo nàn của giáo dục đại học còn do hệ thống đại học Việt Nam thiếu rèn luyện kỹ năng cho sinh viên. Nhận định này thể hiện rõ qua việc Việt Nam không có bất kỳ một bằng sáng chế nào được cấp trong năm 2006.
Trang bị kỹ năng tất nhiên có tầm quan trọng hàng đầu trong giáo dục đại học nhưng cách giải quyết vấn đề thật độc đáo và riêng có thì ít nhà làm giáo dục nước nhà quan tâm đúng mức. Có thể gọi điều này là phong cách hay tính cách riêng có mà từng trường đại học phải hướng đến, tùy theo truyền thống và đặc trưng riêng của từng trường.
Bây giờ xin nêu một ví dụ minh họa trong lĩnh vực kinh tế có liên quan đến những vấn đề thuộc về giáo dục đại học. Thật ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu có nguyên nhân từ vấn đề đạo đức của những thành viên tham gia vào thị trường tài chính. Tiền lương thưởng quá mức đã khiến cho những nhà quản lý tìm mọi cách lách luật để kiếm lợi nhuận. Những tài năng ở Wall Street đa phần là những sinh viên xuất sắc được đào tạo từ những trường đại học danh tiếng hàng đầu trên thế giới. Nhưng cái mà nhiều người trong số họ thiếu là phong cách (riêng có để giải quyết vấn đề) được hình thành tại các trường đại học nơi mà họ học tập trước đây.
Xin mượn ý tưởng của ông Nitin Nohria, hiệu trưởng Trường kinh doanh Harvard cho rằng giáo dục cả "kỹ năng" lẫn "tính cách" chính là một trong những niềm cảm hứng to lớn mà ông tiến hành thành công những cải cách trong giáo dục để làm thay đổi các tập đoàn Mỹ trong thập niên vừa qua.
Chẳng hạn, khi được hỏi làm thế nào để có thể đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, câu trả lời của những sinh viên tham gia khảo sát tại Trường Harvard là họ sẽ tìm cách khuyến khích lương tâm và sự tỉnh táo trong giáo dục kinh doanh và kinh doanh như một hoạt động nghề nghiệp (business education and business as a profession).
Thiết nghĩ đây là phong cách là đẳng cấp mà không phải trường đại học nào cũng có được. Và tất nhiên chúng không thể có được từ những hoạt động mang tính phong trào và từ những chương trình khung áp đặt cho thầy và trò học tập.
Ở Việt Nam ta, những điều mà chúng ta và con em chúng ta nhìn thấy hằng ngày cũng đều liên quan đến đạo đức kinh doanh, đạo đức nghề nghiệp đang ngày càng xấu đi. Trường đại học phải có trách nhiệm gì để chứng tỏ mình và khẳng định tên tuổi của mình trong tương lai hay chỉ hướng tới những giá trị trước mắt?
Liệu với những chương trình vận động và học tập mang tính hình thức ở các trường đại học như hiện nay có phải là ta đang giảng dạy về mặt đạo đức cho cả trò lẫn thầy? Và liệu những chương trình vận động đầy tốn kém như thế sẽ tạo ra một thế hệ tương lai sinh viên ra trường ít bị cám dỗ bởi vật chất, hoặc tạo ra những nhà kỹ trị và chính trị liêm chính? Thật phúc đức biết bao nếu những chương trình này tạo nên tính cách riêng có của sinh viên và thậm chí của cả người thầy ở Việt Nam mà trên thế giới không nơi nào sản sinh được.
Nhiều trường đại học ở Việt Nam đang tìm cách thoát khỏi chiếc áo chật chội. Họ đang tìm mọi cách tự tồn tại và chứng minh tính hữu ích cũng như trách nhiệm của mình đối với xã hội. Nhưng đó chỉ là những hoạt động đơn lẻ và ít được quan tâm của những người có trách nhiệm.
Mà thật ra nếu những nhà lãnh đạo ngành giáo dục hay cao hơn có quan tâm đến đổi mới giáo dục đi chăng nữa thì giáo dục đại học Việt Nam vẫn cứ loanh quanh mãi mà không có hướng ra. Nếu các trường đại học chưa có quyền tự trị về mặt học thuật và tự chủ thì giáo dục đại học Việt Nam phải còn hàng thập niên mất mát nữa mới có thể bắt đầu cuộc đua từ vạch xuất phát với các trường đại học trong khu vực.








