Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 08/09/2011 18:46 (GMT+7)

Đại danh y Hải Thượng “Lãn Ông” – Lê Hữu Trác Viên ngọc chói sáng xuyên thế kỷ

Hải Thưởng “Lãn Ông” – Lê Hữu Trác sinh năm Giáp Thìn(1724) cũng có tài liệu ghi chép ông sinh năm Canh Tý (1720) tại làng Liên Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Cuộc đời ông chủ yếu lại gắn bó với quê mẹ thôn Bàu Thượng, xã Tình Diệm, nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Dòng tộc từng nổi tiếng với truyền thống khoa bảng; ông nội, bác, chú, anh và em họ đều đỗ Tiến sĩ và làm quan. Cụ thân sinh Lê Hữu Mưu từng đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức Ngự sử, tước Bá, khi mất được truy tặng hàm Thượng thư.

Sinh thành trong một gia tộc lớn, được theo cha học tập ở kinh kỳ, ông sớm nổi tiếng tinh anh, thông thạo cả nho, y, lý, số ... Nhưng thời đại ông sống là một trong những thời kỳ rối ren nhất trong lịch sử dân tộc, chiến tranh liên miên, triều chính khủng hoảng, vua Lê – chúa Trịnh chèn ép lẫn nhau, tạo cát cứ, giao tranh giữa Đàng Trong – Đàng Ngoài làm cho dân tình đói khổ, phiêu tán, loạn ly... Tư chất thông minh, truyền thống gia đình và những hoàn cảnh xô đẩy của cuộc đời đã giúp ông sớm nhận thức được bản chất của xã hội đương thời. Bởi lẽ ấy, khác với nhiều sỹ tử cùng thời, ông đã kiên quyết khước từ con đường cử nghiệp để ẩn về quê mẹ Hương Sơn, vừa trông nom gia quyến, vừa đọc kinh sách, làm thơ, chữa bệnh cứu người.

Các sử gia cho hay: Thuở ấy nơi đây là chốn thâm sơn, cùng cốc, núi non trùng điệp xếp thành hình cánh phượng, in bóng xuống dòng Ngàn phố trong xanh, lượn lờ như dải lụa vắt qua không gian hùng vĩ mà mỹ lệ. Quả là chốn bồng lai, tiên cảnh: có núi, sông, trời, mây giao hòa và khoáng đạt...

Hương sơn lại là miền đất thiên phú đầy hoa thơm, cỏ lạ. Đâu đâu cũng tìm thấy dược thảo. Chính vì vậy từ xa xưa miền quê này đã phát triển nghề nuôi hươu. Hươu Hương Sơn được ăn thảo dược nên lộc nhung được chắt lọc, kết tinh từ nhiều loài thuốc quý.

Có thể nói vùng quê này đã tạo nên những yếu tố, hun đúc cho danh y lập nên công nghiệp lừng danh.

Hơn 40 năm ẩn cư ở Hương Sơn, mặc dù tự nhận mình là “ Lãn Ông” – ông già lười, nhưng thực chất đó là những năm tháng dồn tâm huyết lao động cực nhọc nhất và cũng là thời đoạn phát sáng của Hải Thượng. Vừa chữa bệnh cứu người, vừa miệt mài đọc sách, nghiên cứu về y thuật, y lý, tìm kiếm, khảo cứu, điều chế các loài dược liệu trong vùng, tổng hợp, sáng tạo ra nhiều bài thuốc dân gian, nhiều cách chữa bệnh đơn giản, nhằm cứu nhân, độ thế.

Ngày 12 tháng Giêng năm Cảnh Hưng thứ 43 (1782), Chúa Trịnh triệu ông ra kinh đô chữa bệnh. Hoàn thành bổn phận, ông lại cáo xin về quê Hương Sơn để tiếp tục sự nghiệp “Trị bệnh cứu người”; bổ sung bộ “Y tông tâm lĩnh”, viết tác phẩm “Thượng kinh ký sự” – Một tác phẩm văn chương ưu tú trong kho tàng văn học Việt Nam.

Ông thanh thản ra đi đúng vào ngày Rằm tháng Giêng năm Tân Hợi (1791). Tương truyền, trước lúc lâm chung, ông dặn cháu, con thả cánh diều ông thường chơi và buộc ở góc nhà, diều rơi ở đâu thì táng ông ở đấy. Trước phút lâm chung, cánh diều rơi xuống núi Minh Tự (nhân dân trong vùng gọi là núi Cánh Diều). Thuận theo ý nguyện Mộ Đại danh y được táng tại đây.

Cuộc đời và sự nghiệp của Hải Thượng Lãn Ông như một viên ngọc quý được mài giũa không hề gợn một vết bụi trần chói sáng giữa không gian lịch sử u ám. Hào quang ấy đã và đang tỏa sáng xuyên qua các thế kỷ hậu thế.. Đại danh y với học vấn uyên bác, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, hiểu sâu sắc thời vận. Suốt cả cuộc đời làm thuốc, Ông đã có công sưu tầm, phát hiện và bổ sung 300 vị thuốc nam, thu thập tổng hợp 2.854 phương thuốc hay của các bậc tiền bối lưu truyền trong dân gian. Sau hơn 40 năm miệt mài nghiên cứu và tận tụy chữa bệnh cứu người, Ông đã để lại cho nền y học Việt Nam một di sản quý giá, đặc biệt là bộ sách “Y tông tâm lĩnh” được khắc in vào năm 1885, gồm 28 tập, 66 quyển. Trong tác phẩm đồ sộ này, Hải Thượng Lãn Ông đã đúc kết tinh hoa y học cổ truyền Việt Nam, thông qua những kinh nghiệm thực tiễn phong phú, xây dựng thành hệ thống toàn bộ Lý, Pháp, Phương, Dược của nền y học nước nhà. Những trước tác mà Đại Danh y để lại chính là bộ giáo khoa kinh điển mẫu mực, góp phần đào tạo, bồi dưỡng về y đức, y đạo, y thuật giáo hóa cho các thầy thuốc mãi mãi các đời sau.

Chín điều “Y huấn cách ngôn” chính là khuôn phép, nguyên tác của người hành nghề y dược: Nhân ái, sáng suốt, đức độ, hiểu biết, rộng lượng, thành thực, khiêm tốn và cần cù là kim chỉ nam về y đức cho những người thầy thuốc chân chính. Cùng với thời gian, những lời di huấn vô gia đó ngày càng tỏa sáng trong tâm thức các thế hệ thầy thuốc: “Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên lo tính mạng cho con người; phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc chữa bệnh cứu người làm nhiệm vụ của mình, không được mưu lợi kể công”.

Lê Hữu Trác còn là một nhà thơ tài hoa, một nhà văn xuất sắc. Tác phẩm “Thượng kinh ký sự” ghi chép lại những sự kiện, những điều mắt thấy tai nghe khi ông lên kinh đô chữa bệnh cho Nhà Chúa. Tác phẩm đã phản ánh rõ tính cách của ông, một con người coi thường danh lợi, một nghệ sỹ giàu cảm xúc trước thiên nhiên, tạo vật. Tác phẩm đã độc chiếm một vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam . Trong sách “Âm dương y án” chỉ ghi lại một số câu chuyện chữa bệnh nhưng lại có giá trị nhân văn sâu sắc. Người đương thời đã nhận xét: “Tiên sinh là bậc tuổi cao, đức dày, có tài làm thuốc của Hiên Viên, Kỳ Bá; có tài làm thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, lại có cái chí nhàn dật, cái tình phong nhã của một bậc cao sỹ. Bao nhiêu nhân văn, tài tử muốn xin theo hầu.

Từ cuộc đời và sự nghiệp của mình, Hải Thượng Lãn Ông còn để lại cho hậu thế những giá trị lớn về tư tưởng.

Đó là quan điểm về cuộc sống, quyết vứt bỏ cái chí bon chen trong trường danh lợi để theo đuổi chí hướng “Nghề y thiết thực lợi ích cho mình để cứu nhân độ thế”. Với ông “nghề thuốc là một nghề thanh cao, là một nghề có lòng nhân ái”.

Qua trước tác và truyền thụ, ông muốn “thâu tóm toàn bộ hàng trăm cuốn sách, đúc thành một pho để tiện xem, tiện đọc” và xem đây như là một yêu cầu của bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Vì vậy, sách của ông viết xong đến đâu là có người chép tay lưu truyền.

Cùng với các trước tác để lại, chính cuộc đời 70 năm hưởng thọ, Hải Thượng Lãn Ông, với 44 năm làm thuốc, chữa bệnh cứu người, với tài cao, đức rộng, côt cách thanh tao, Lê Hữu Trác trở thành “Một bậc thiên tài kiệt xuất của nền Y dược học cổ truyền Việt Nam” và là một Danh nhân văn hóa lớn của dân tộc.

Để chấn hưng và phát triển bền vững di sản vô giá Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác những năm qua ngành y tế Việt Nam đã không ngừng phát triển nền y dược học cổ truyền kết hợp với y học hiện đại đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cho nhân dân và đời sống kinh tế xã hội nâng cao. Nền y dược học khởi nguồn từ Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác không chỉ đóng khung tại nội quốc mà đã lan truyền đến các quốc gia lân bang và cả giới y học các nước phương tây hết sức thán phục.

Từ tầm tư tưởng và kho tàng nghiên cứu khoa học của bậc cao nhân hiền tài Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông là cái nôi nuôi dưỡng cho các thế hệ lương y Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.

Đầu xuân Tân Mão vừa qua, Bộ y tế đã tôn vinh và trao giải Hải Thượng Lãn Ông cho 91 thầy thuốc có nhiều đóng góp, xây dựng và phát triển nền y dược cổ truyền của đất nước.

Để tôn vinh và ghi tạc công ơn to lớn của Đại danh y, nhiều thập kỷ qua, cùng với hậu duệ dòng họ Lê Hữu ở quê cha và quê mẹ, Bộ y tế, các Bộ, Ngành Trung ương và địa phương đã dành nhiều công sức trong việc giữ gìn, tôn tạo và phát huy những di sản mà Đại danh y để lại. Dự án tu bổ, tôn tạo quần thể di tích Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác do viện Bỏng quốc gia mang tên Ông làm chủ đầu tư đã được triển khai các hạng mục đã hoàn thành và phát huy hiệu quả. Cũng trong ngày lễ này, Bộ y tế, tỉnh Hà Tĩnh đã khởi công xây dựng công trình nhà Văn hóa Lê Hữu Trác. Dự án có mức đầu tư khoảng 40 tỷ VNĐ, trên diện tích gần 3000m 2, nằm trong quần thể văn hóa 20ha tại Thị trấn Phố Châu (Hương Sơn).

Ngoài nguồn vốn ngân sách hạn hẹp, dự án này đang rất cần sự đóng góp từ những tấm lòng hảo tâm ngưỡng vọng Đại danh y của cán bộ, nhân dân và các doanh nhân, doanh nghiệp hỗ trợ nhằm sớm đưa công trình vào sử dụng

Các đề án tu bổ nhà thờ, phát triển bền vững khu vực này trên cơ sở khai thác tiềm năng, lợi thế về di sản văn hóa – tâm linh với du lịch sinh thái vùng nước khoáng Sơn kim, phát triển đàn hươu, trồng dược liệu... thường xuyên được coi trọng.

Trong diễn văn đọc tại lễ kỷ niệm 220 năm ngày mất Đại danh y, Bộ trưởng Bộ y tế - Nguyễn Quốc Triệu khẳng đinh: Tài năng kiệt xuất và đức độ của Đại danh y Hải Thượng “Lãn Ông” – Lê Hữu Trác và những di sản mà người để lại cho đời sau là vô giá, trở thành cẩm nang cho nền y dược học Việt Nam./.

Xem Thêm

Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Khoa học phải luôn mở rộng hợp tác và học hỏi
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương, một trong những nhà khoa học hàng đầu về hàng không - vũ trụ của Việt Nam, đã có hơn nửa thế kỷ cống hiến cho ngành khoa học kỹ thuật hàng không vũ trụ. Không chỉ là người đặt nền móng cho các sản phẩm bay tiết kiệm chi phí cho Việt Nam, ông còn là người thầy tâm huyết, truyền cảm hứng và kiến thức cho nhiều thế hệ trẻ…
An Giang: Người thắp lửa sáng tạo cho học sinh tiểu học
Đam mê đặc biệt với khoa học và sáng tạo, thầy giáo Nguyễn Văn Trung đã không ngừng nỗ lực truyền cảm hứng cho học sinh tiểu học, đồng thời hướng dẫn các em đạt được những thành tích ấn tượng ở cả cấp tỉnh lẫn cấp quốc gia.
Phú Yên: Những nữ trí thức góp phần cải thiện đời sống người dân
Trong thời kỳ hội nhập, sự phát triển của khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng thúc đẩy các ngành kinh tế - xã hội khác phát triển. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) nữ trí thức không chỉ thể hiện khả năng sáng tạo, nghiên cứu mà còn góp phần tạo ra những ứng dụng thực tiễn giúp cải thiện đời sống người dân và phát triển kinh tế.
Tấm gương sáng trong nghiên cứu và bảo tồn di sản lịch sử
Ông sinh năm1948 tại Phường Hồng Hà, thị Yên Bái, là nhà khoa học tâm huyết, là tấm gương sáng về lòng kiên trì, sự đam mê nhiên cứu và cống hiến hết mình cho sử học của tỉnh Yên Bái. Những đóng góp của Nguyễn Văn Quang đối với ngành sử học đã để lại những dấu ấn sâu sắc và có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn di sản lịch sử địa phương nơi có nhiều di tích lịch sử và văn hóa dân tộc vùng cao.

Tin mới

Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Phú Yên: Giải thể 03 tổ chức Hội thành viên
UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành các Quyết định số 1471, 1472, 1473/ QĐ-UBND về việc giải thể 03 tổ chức Hội là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú gồm: Hội Kế hoạch hoá gia đình, Hội Phụ sản và Hội Y tế thôn bản. Đây là các Hội không còn hoạt động liên tục mười hai tháng theo quy định.
Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.
Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.