Công nghiệp phần mềm thế giới và xu thế phát triển ở Việt Nam
1. Công nghiệp phần mềm thế giới - xu thế nổi bật
Động thái và những chuyển đổi trong trào lưu phát triển ở các quốc gia.
Theo số liệu của Trung tâm Dữ liệu Quốc tế (IDC), những năm gần đây doanh thu từ lĩnh vực (công nghiệp phần mềm) CNPM thế giới đã có bước tăng trưởng vượt bậc. Đi cùng xu thế đó là việc phân bổ lại các ngành. Những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, CNPM (chiếm 97% doanh thu toàn cầu) tập trung chủ yếu ở các nước phát triển thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Những năm 1990, trong giá trị CNPM thế giới, Hoa Kỳ chiếm 57%, 5 nước thuộc OECD (Nhật, Pháp, Đức, Anh và Canada) chừng 37%. Mười năm gần đây, tỷ trọng CNPM thế giới có sự thay đổi với việc nổi lên của các nước đang phát triển như Ấn Độ, Trung Quốc và một số nước khác, đã làm tỷ trọng của Hoa kỳ giảm xuống ở mức 39% và 5 nước thuộc OECD giảm chỉ còn 27%. Thành công của CNPM Ấn Độ, Trung Quốc và nhiều nước đang phát triển đã khẳng định, tập trung phát triển ngành công nghiệp này là một hướng đi đúng đắn. Tuy nhiên, thị phần CNPM của các nước đang phát triển còn nhỏ (chừng 4%) trong chuỗi giá trị toàn cầu. Hoa Kỳ là nước đứng đầu thế giới về CNPM với doanh thu hàng năm trên 280 tỷ USD (chiếm 35% giá trị tiêu thụ toàn cầu). Năm 2000, giá trị nhập khẩu CNPM của Hoa Kỳ đạt trên 11 tỷ USD. Nhật Bản là nước có doanh thu CNPM đứng thứ 2 sau Mỹ, với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 45%. Sản phẩm phần mềm Nhật Bản chiếm 20% thị phần thế giới, tăng trưởng mạnh, song có chiều hướng thiên về thuê gia công ở nước ngoài. Ở châu Âu, 17 nước Tây Âu có giá trị tiêu thụ phần mềm hàng năm chiếm trên 24% giá trị toàn cầu, nhưng chủ yếu là phần mềm dịch vụ (chừng 2/3). Ấn Độ được xếp là một cường quốc xuất khẩu phần mềm với khoảng 3.000 công ty, với mức tăng trưởng bình quân hàng năm 45% trong suốt thập niên 1990. Năm 2005, Ấn Độ có 1,3 triệu người làm việc trong lĩnh vực CNPM, doanh thu đạt trên 29,3 tỷ USD, khoảng 80% doanh số là từ xuất khẩu. Trung Quốc chưa có thành công rực rỡ như Ấn Độ song có sự phát triển đầy ấn tượng. Năm2002, doanh thu CNPM Trung Quốc đạt 13,3 tỷ USD, với nhịp độ tăng trưởng hàng năm đạt 87,3% về dịch vụ và chừng 20% đối với phần mềm đóng gói.
1.1. Nhân lực CNPM - thách thức phát triển ở mọi quốc gia
Nét nổi bật ở mọi quốc gia trong phát triển CNPM là sự thiếu hụt trầm trọng nguồn nhân lực trí tuệ và giá nhân công gia tăng nhanh (đặc biệt là ở các nước đã phát triển). Hoa Kỳ hiện có khoảng 1.000.000 kỹ sư phần mềm, hàng năm chỉ đào tạo được thêm 20.000 nên không thể đáp ứng được nhu cầu ngày một gia tăng (năm 2005, ngành CNPM Hoa Kỳ tuyển dụng thêm 43.400 kỹ sư, con số này năm 2006 lên 88.500 người). Nhật Bản hiện có 600.000 kỹ sư phần mềm (ước tính thiếu trên 70.000 người). Tại những nước đang phát triển, nhu cầu nhân lực cho CNPM cũng ngày một gia tăng. Năm 1999, Ấn Độ có 280.000 lao động phần mềm đến năm 2005, con số này đã vượt lên đến 1.300.000. Tại Trung Quốc, năm 2003 có khoảng 700.000 lao động phần mềm, đến 2006 đã tăng gần gấp đôi (trên 1.200.000 người).
1.2. Công ty toàn cầu và xu thế chuyển hoá sản phẩm
Quá trình phát triển CNPM cho thấy, các công ty phần mềm đã không ngừng tích hợp để trở thành những tập đoàn có sức mạnh chi phối toàn cầu. Hầu hết những tập đoàn phần mềm lớn đều là những tổ chức kinh tế của các nước thuộc OECD. Với đặc thù của sản phẩm CNPM, không có nước nào hoặc công ty nào chỉ xuất mà không nhập. Những nước có doanh thu xuất khẩu cao thường lại là thị trường nhập khẩu phần mền lớn nhất. Trong xu thế Softwware Outsourcing hiện nay, hầu hết những công ty phần mềm toàn cầu đều thực hiệnviệc thuê gia công phần mềm ở các nước đang phát triển. Tổ chức Nghiên cứu Thị trường Gartner cho biết, gần 80% doanh nghiệp phần mềm (DNPM) Hoa Kỳ thực hiện việc thuê gia công ở ngoài nước, số còn lại theo dự báo, sớm muộn rồi cũng gia nhập vào trào lưu này.
Phân tích động thái và trào lưu phát triển CNPM thế giới có thể thấy, vào thập niên 1980-1990, ưu thế CNPM thuộc về những nước trong tổ chức OECD; đến nay đang có xu thế chuyển dịch sang những nước đang phát triển. Trong cơ cấu sản phẩm, dịch vụ phần mềm vẫn chiếm ưu thế (khoảng 2/3), phần mềm đóng gói chiếm tỷ lệ nhỏ, chủ yếu là ở các nước công nghiệp phát triển. Trước thách thức về nguồn nhân lực và giá lao động gia tăng, nhiều công ty phần mềm đang chuyển hướng sang tìm dối tác ở nước ngoài để thực hiện gia công một phần hoặc toàn bộ sản phẩm, nhiều dịch vụ đầu cuối đang được dịch chuyển đến những nước đang phát triển. Các công ty đa quốc gia đã thiết lập những chi nhánh và trung tâm hỗ trợ khách hàng bên ngoài chính quốc. Trong xu thế này, những nước đang phát triển có cơ hội để thu hút các tập đoàn phần mềm lớn đầu tư trực tiếp vào phát triển CNPM hoặc thiết lập những chi nhánh ở đất nước mình. CNPM chịu sự chi phối nhiều mặt về công nghệ của các hãng và tập đoàn lớn, nắm bắt được xu thế phát triển công nghệ và sản phẩm tương lai trong làn sóng đầu tư nước ngoài để xây dựng chiến lước phát triển thích hợp, có thể là cơ hội cho phát triển CNPM ở những nước đi sau.
2. CNPM Việt Nam - thực trạng và vấn đề cần quan tâm
Việt Nam được đánh giá có tiềm năng phát triển CNPM, ngành công nghiệp này đang là nơi thu hút nhiều lao động trẻ, có trình độ cao trong nước và việt kiều từ nước ngoài. Phần mềm và công nghệ thông tin (CNTT) ngày càng được phổ cập trong đời sống xã hội với gần 20 triệu người sử dụng Internet. Thực tế gần đây cũng cho thấy, CNPM tuy mới phát triển nhưng đã tạo việc làm cho trên 48.000 lao động với thu nhập bình quân đạt khoảng 10.000 USD/năm. Đội ngũ lao động trong ngành đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế (trên 40%/năm) và giá trị xuất khẩu phần mềm đạt mức tăng trưởng bình quân trên 55%/ năm liên tục trong thời gian gần đây ( năm 2007, kim ngạch xuất khẩu đạt 180 triệu USD). Có thể nói, ngành CNPM nước ta đã có những bước tiến quan trọng, được xem là 1 trong 20 thị trường hấp dẫn toàn cầu và theo Hiệp hội CNTT Nhật Bản (JISA), Việt Nam đã vượt qua Ấn Độ và Trung Quốc để có vị trí đứng đầu trong sự lựa chọn của các doanh nghiệp Nhật Bản đặt gia công phần mềm.
2.1 Thị trường phần mềm Việt Nam trong bước khởi đầu
Theo đà phát triển của CNTT, thị trường phần mềm nước ta đã có sự tăng trưởng khá mạnh. Từ năm 2000 đến 2005, tốc độ tăng trưởng bình quân của thị trường nội địa đạt trên 32%/năm. Trong tổng giá trị sản phẩm và dịch vụ phần mềm năm 2006 (350 triệu USD) và năm 2007 (khoảng 500 triệu USD) thị trường trong nước tiêu thụ gần 2/3. Theo phân tích, cơ quan hành chính sự nghiệp và công ty Nhà nước là những khách hàng tiềm năng của CNPM Việt Nam (chiếm 1/3 tổng chi tiêu cho CNTT cả nước). Trong xu thế hội nhập, việc ứng dụng CNTT trong các ngành viễn thông, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, dầu khí... gia tăng mạnh. Tuy nhiên, các DNPM Việt Nam hiện vẫn thiếu thông tin và số được hưởng lợi từ các dự án nhà nước còn thấp. Hạn chế lớn về thị trường của DNPM trong nước là thiếu thông tin và thị trường không ổn định. Để định hướng phát triển thị trường nội địa, Hiệp hội Doanh nghiệp Phần mềm Việt Nam (VINASA) cho rằng, cần có những biện pháp kích cầu, không chỉ đơn thuần là bỏ tiền ngân sách mua phần mềm mà quan trọng là phải đặt ra chuẩn mực, hướng dẫn cho các doanh nghiệp nên mua phần mềm nào cho hiệu quả và khuyến khích việc sử dụng những phần mềm nội địa. Số liệu công bố cho thấy 81,8% số tổng công ty 91 có sử dụng CNTT, đến tổng công ty 90 còn 50%, 26,8% số công ty độc lập sử dụng CNTT, các dạng công ty khác chỉ có 25%. Sản phẩm và dịch vụ phần mềm được quan tâm nhiều nhất là phần mềm quản lý doanh nghiệp, tiếp đó là phần mềm quản lý bán hàng và vật tư. Tuy nhiên, cái mà doanh nghiệp cần nhất cũng mới chỉ là phần mềm phổ cập, mang giá trị thấp, có thể cung cấp hàng loạt như phần mềm kế toán. Một trong những sản phẩm được đánh giá có tiềm năng là phần mềm quản lý, hoạch định tài nguyên doanh nghiệp (ERP) song mới chỉ có chừng 3% doanh nghiệp được khảo sát quan tâm, chừng 7% doanh nghiệp có nhu cầu, số còn lại dường như chưa có khái niệm về việc sử dụng sản phẩm này. Thị trường xã hội mới tập trung vào phần mềm giải trí với những trò chơi trực tuyến, phần mềm và các dịch vụ gia tăng cho thiết bị thông tin di động và các phần mềm cho giáo dục đào tạo. Sự bùng nổ của trò chơi M.U Online cuốn hút hàng trăm nghìn người tham gia chỉ trong một thời gian ngắn, đã thúc đẩy nhiều doanh nghiệp phần mềm đầu tư vào lĩnh vực này.
Tuy chỉ bắt đầu bước vào thị trường xuất khẩu trong vòng 10 năm gần đây, song phần mềm xuất khẩu Việt Nam đã có nhịp độ tăng trưởng khá nhanh. Nhiều công ty phần mềm đã vươn tới những thị trường lớn ở Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản với kim ngạch xuất khẩu hàng năm không ngừng gia tăng (từ 70 triệu USD năm 2005 lên 110 triệu USD năm 2006, tăng 57%, đạt 180 triệu USD, tăng gần 64% trong năm 2007). DNPM nước ta đã tìm được những khách hàng lớn để gia công xuất khẩu nhưng chủ yếu mới là dịch vụ và đang gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt từ các DNPM Ấn Độ, Nga, Trung Quốc.
2.2 Hiện trạng doanh nghiệp CNPM Việt Nam
Hiện nay, trên địa bàn cả nước có khoảng 4.000 doanh nghiệp đăng ký sản xuất kinh doanh phần mềm, song số thực sự sản xuất phần mềm mới có trên 750 doanh nghiệp. Trong số này, 52% ở thành phố Hồ Chí Minh, 40% ở Hà Nội, các địa phương khác khoảng 8%. Trong cơ cấu DNPM nước ta, trên 86% là những công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân; 8% là những doanh nghiệp liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài; số doanh nghiệp nhà nước chiếm khoảng 5,1% Nhiều tổ chức nước ngoài tuy chỉ mới thành lập văn phòng đại diện ở Việt Nam, nhưng lại giành được những hợp đồng lớn để cung cấp giải pháp phần mềm, đẩy nhiều DNPM Việt Nam vào thế bị cạnh tranh gay gắt ngay tại sân nhà. Trong số những DNPM đang hoạt động, khoảng 150 doanh gnhiệp tham gia gia công xuất khẩu phần mềm. Tuy nhiên, đại bộ phận DNPM Việt Nam đều quy mô nhỏ, thiếu lao động có kỹ năng chuyên môn (nhất là lao động quản lý và làm việc theo nhóm)... Cùng với sự phát triển của doanh nghiệp, đội ngũ lao động phần mềm và nội dung số đã có sự phát triển với mức tăng trưởng bình quân hàng năm từ 35% đến 40%. Cả nước hiện có 99 đại học, 105 trường cao đẳng đào tạo chuyên ngành CNTT và 72 trung tâm đào tạo liên kết với nước ngoài cấp bằng CNTT. Số sinh viên nhận bằng kỹ sư và cử nhân CNTT hàng năm khoảng 10.000 người song vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu hiện nay.
2.3 Thách thức và những triển vọng
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, hạn chế về số lượng và quy mô doanh nghiệp xuất khẩu phần mềm đang là một trở ngại đối với việc phát triển CNPM nước ta. Bên cạnh đó, cơ sở luật pháp nhất là về sở hữu trí tuệ (SHTT) chưa đủ mạnh nên tỷ lệ vi phạm quyền SHTT phần mềm còn cao. Hạn chế này đòi hỏi Nhà nước phải thực thi những giải pháp mạnh để tăng cường hơn nữa việc bảo vệ quyền lợi của các chủ thể SHTT trong CNPM. Đội ngũ lao động tuy được đào tạo nhiều về số lượng, nhưng về kỹ năng (nhất là trình độ quản lý và ngoại ngữ) còn yếu; thiếu nghiêm trọng đội ngũ nhà quản lý chương trình (Program Manager) và quản lý dự án (Projet Manager) đòi hỏi phải có những chuyển hướng mạnh mẽ trong chủ trương đào tạo, đặc biệt là đào tạo đội ngũ các nhà quản lý và làm việc theo nhóm. Trong xu thế phục hồi và tăng trưởng mạnh mẽ của CNTT toàn cầu, từ sự thiếu hụt của đội ngũ chuyên gia CNTT thế giới, áp lực giảm giá và tăng năng suất trong ngành CNPM ở các nước phát triển đã hình thành trào lưu thuê gia công phần mềm và dịch vụ nước ngoài của các công ty, tập đoàn CNTT đa quốc gia và những doanh nghiệp lớn. Nhiều thị trường có nhu cầu ngày càng lớn về thuê gia công phần mềm đã hình thành ở Nhật Bản, Úc, Canada, Singapore, Hoa Kỳ và các nước châu Âu. Cùng với nhu cầu này, sự vượt lên của Ấn Độ, Trung Quốc, Ixraen... đã tạo áp lực cạnh tranh, buộc nhiều công ty phần mềm ở những nước phát triển phải chuyển hướng thuê gia công phần mềm sang những nước đang phát triển khác. Thế mạnh và sự hấp dẫn của CNPM Việt Nam được thể hiện ở các khía cạnh: Dân số trẻ (trên 60% trong tuổi lao động), nguồn nhân lực CNTT có trình độ cao, năng động và ham học hỏi; chi phí hoạt động và giá thuê nhân công rẻ (chỉ bằng 1/3 so với Ấn Độ và chừng ½ so với Trung Quốc). Ngoài ra, trong điều kiện chính trị, an ninh ổn định, an toàn xã hội được đảm bảo, CNPM Việt Nam ngày càng có sức hấp dẫn đối với doanh nghiệp và nhà đầu tư CNTT nước ngoài.
Phát triển CNTT (đặc biệt là CNPM) là chủ trương ưu tiên của lãnh đạo Nhà nước, nhằm đi tắt, đón đầu để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thời gian qua, CNTT đã trở thành ngành kinh tế mũi, nhọn có tốc độ phát triển cao nhất và giá trị đóng góp vào tăng trưởng GDP ngày một lớn, trở thành ngành có sức hấp dẫn, thu hút mạnh đầu tư trong và ngoài nước. Những hoạt động hợp tác đầu tư trong lĩnh vực CNPM với nhiều nước diễn ra sôi nổi những năm gần đây đã mở ra nhiều triển vọng tốt đẹp với nhiều kế hoạch đầu tư lớn vào lĩnh vực này. Đây là một động thái quan trọng, mở đường cho sự phát triển thị trường gia công phần mềm và sự trưởng thành, lớn mạnh của các DNPM trong nước.
Tài liệu tham khảo
Thủ tướng Chính phủ: Quyết định 51/2007/QD-TTg ngày 12.4.2007 phê duyệt Chương trình phát triển CNPM đến năm 2010
VINASA:
- Danh bạ sản phẩm, dịch vụ phần mềm Việt Nam 2007, NXB Bưu điện Hà Nội 2008
- Tổng quan phát triển thị trường phần mềm Việt Nam , Hà Nội 2008
- Nguyễn Anh Tuấn: Công nghệ phần mềm Việt Nam : Hiện trạng và định hướng, Hà Nội 2007
- Lê Minh Thanh: Xuất khẩu phần mềm Việt Nam , tất cả còn ở phía trước, Tạp chí Nhịp sống số 2008.








