Công nghệ mới cho cuộc sống
Các giống mới và quy trình canh tác mới... đã góp phần không nhỏ đưa nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Những thành tựu đạt được trong các lĩnh vực đời sống cũng đã khẳng định vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Khoa học gắn với cuộc sống
Mới đây, công trình 'Nghiên cứu thiết kế, chế tạo hệ thống thiết bị hàn tự động nối ống có đường kính lớn ở trạng thái không quay' do TS Hoàng Văn Châu - Viện Nghiên cứu cơ khí làm chủ nhiệm được nghiệm thu, đã mở ra một hướng đi mới trong chế tạo đường ống áp lực phục vụ công trình thủy điện vừa và nhỏ. Nhờ quá trình tự động hóa việc cấp dây hàn, tự động dịch chuyển theo quỹ đạo đúng tốc độ hàn mà có thể định vị chính xác rãnh hồ quang ổn định, tăng năng suất lao động gấp ba đến bốn lần so với hàn thủ công bằng que hàn tay. Ðặc biệt, công nghệ này cho mối hàn rất ổn định, không phụ thuộc nhiều vào người thợ hàn, lại khắc phục được nhược điểm của phương pháp truyền thống là chỉ có thể áp dụng trong nhà xưởng, không áp dụng được ngoài công trường thi công các tuyến đường ống lớn và dài. Hệ thống hàn tự động nối ống đường kính lớn ở trạng thái không quay đã được ứng dụng để hàn đường ống áp lực cho công trình thủy điện Nậm Khánh tại huyện Bắc Hà, Lào Cai và được đánh giá bảo đảm yêu cầu chất lượng công nghệ hàn. Hay trong hoàn cảnh việc giám sát và phòng chống các dịch bệnh còn nhiều khó khăn, đề tài 'Ứng dụng GIS phục vụ quản lý dịch bệnh nguy hiểm trên địa bàn TP Hồ Chí Minh' của nhà khoa học Lưu Ðình Hiệp (Trung tâm Công nghệ thông tin địa lý) đã giúp các nhà quản lý y tế TP Hồ Chí Minh có cái nhìn trực quan về tình hình dịch bệnh đang diễn ra tại địa phương, phân tích xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển từ đó ra những quyết định chính xác và kịp thời hơn. Công trình đã góp phần nâng cao chất lượng quản lý, giảm nhẹ thiệt hại trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Nếu công nghệ này được triển khai rộng rãi đến từng xã, phường trong cả nước, sẽ giúp ngành y tế chủ động giám sát tình hình dịch bệnh.
Nhờ ứng dụng KH-CN, nhiều lĩnh vực đã có bước phát triển vượt bậc. Chương trình 'Nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học' đã đem lại nhiều kết quả quan trọng, như nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất các bộ kit chẩn đoán sớm bệnh hiểm nghèo, nghiên cứu làm chủ công nghệ na-nô sinh học, tin sinh học phục vụ giải mã gien và phát hiện các bệnh lạ. Việc chẩn đoán bệnh bằng kỹ thuật gien được hầu hết các bệnh viện tuyến T.Ư, trung tâm y tế dự phòng các địa phương ứng dụng. Những kết quả nghiên cứu này giúp Việt Nam chủ động phòng chống dịch bệnh khi có các đợt dịch nguy hiểm xảy ra. Ðặc biệt, trong lĩnh vực tế bào gốc, công trình nuôi cấy và biệt hóa thành công tế bào gốc từ màng ối và dây rốn cho phép nuôi cấy, bảo quản lâu dài tế bào gốc từ màng ối, dây rốn và biệt hóa ra các bộ phận cơ thể để thay thế khi bộ phận đó bị bệnh được tiến hành thành công, đem lại hiệu quả cao. Ðây là công nghệ mới, lần đầu tiên được triển khai ở Việt Nam .
Cùng các ngành công nghệ mũi nhọn khác, công nghệ sinh học cũng góp phần khai thác tối ưu các nguồn lực của đất nước phục vụ phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Trước nguy cơ biến đổi khí hậu và nước biển dâng, từ năm 2009 đến nay, qua nhiều lần thanh lọc trong phòng thí nghiệm và bể nhà lưới Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long đã tìm 30 dòng lúa có triển vọng chịu mặn. Một số giống lúa có khả năng kháng mặn ở mức từ 0,3-0,4% như OM6976, OM6677, OM5464, OM5629, OM5166 đã được khảo nghiệm ở Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Bến Tre. Kết quả, giống lúa OM5464 đang được đề nghị nhân rộng và trình Bộ NN và PTNT công nhận là giống lúa sản xuất thử trong năm 2010. Hai giống OM6976 và OM5166 đang được tiếp tục khảo nghiệm, xác định biện pháp kỹ thuật thích hợp để tăng tính chịu mặn và năng suất của giống, dự kiến đăng ký công nhận trong năm 2011.
Không ít công trình nghiên cứu khoa học đã đem lại hiệu quả vượt bậc khi doanh nghiệp ứng dụng. Cụ thể như công trình làm nước tương lên men không có chất 3MCPD, không sử dụng a-xít và rút ngắn thời gian ngâm ủ từ sáu tháng xuống còn một tháng đã được ứng dụng thành công tại Công ty Nosafood. Bằng cách phối hợp với các nhà khoa học, Công ty CP Cơ khí đúc kim loại Sài Gòn vay vốn ưu đãi để mua linh kiện về lắp ráp dây chuyền sản xuất, làm giảm chi phí xuống còn vài chục tỷ đồng, thay vì phải nhập máy móc với giá hàng trăm tỷ đồng. Nhờ bắt tay với nhà khoa học, công ty đã cải tiến quy trình, ứng dụng công nghệ đạt hiệu quả, đem lại nguồn lợi lớn cho công ty. Hay đề tài khoa học 'Nghiên cứu hoàn thiện công nghệ chế biến thực phẩm từ rong sụn Kappaphycus alvarezii và sản phẩm nước uống từ rong Porphyra' (do PGS.TS Ðống Thị Anh Ðào, Ðại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm) dùng dịch chiết trong rong sụn để phối chiết với nước ép các loại quả: mít, chuối, cà rốt chế biến ba sản phẩm nước uống và 11 loại mứt khô khác có chứa hàm lượng bổ dưỡng cao đã mở ra triển vọng mới cho nghề trồng và sản xuất các loại thực phẩm từ rong sụn ở Ninh Thuận.
Tạo sức bật mới
Các nghiên cứu khoa học nhanh chóng được đưa vào ứng dụng đóng góp không nhỏ cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Nhiều sản phẩm đã đạt trình độ công nghệ cao, tương đương trình độ công nghệ khu vực và trên thế giới. Nhiều kỹ thuật, giống cây trồng, vật nuôi mới được chọn tạo, chuyển giao, ứng dụng thành côngđã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm nông nghiệp, tạo được sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ðặc biệt việc chuyển giao công nghệ về giống, nuôi thả, thức ăn và công nghệ chế biến thủy sản đã trở thành yếu tố quyết định bảo đảm lợi thế cạnh tranh của tôm, cá xuất khẩu ở thị trường Mỹ và EU. Trong một số lĩnh vực có thế mạnh, Việt Nam đã xuất khẩu như công nghệ hầm bi-ô-ga, công nghiệp sản xuất đèn com-pắc, thiết kế, chế tạo máy móc thiết bị, các nghiên cứu vi sinh. Chỉ tính riêng Chương trình khí sinh học cho ngành chăn nuôi Việt Nam đã xây dựng được hơn 70.000 hầm khí sinh học cho 37 tỉnh thành trong cả nước. Với số lượng hầm bi-ô-ga được xây dựng như vậy, số tiền nhiên liệu tiết kiệm được trong đun nấu và thắp sáng ước tính hơn 600 tỷ đồng/năm. Bên cạnh đó, số lượng hầm khí sinh học này cũng giúp giảm khoảng hơn 400.000 tấn phát thải CO2 mỗi năm, đồng thời tạo gần 3.000 việc làm về cung cấp dịch vụ và xây dựng công trình khí sinh học cho người dân nông thôn. Dĩ nhiên, nếu không có KH-CN, chúng ta không thể có những thành tựu như vậy.
Dẫu vậy, KH-CN thời gian qua vẫn chưa tương xứng với vị trí là quốc sách hàng đầu, là động lực của nền kinh tế. Số sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp được cấp bằng bảo hộ ít ỏi, số các công trình có ý nghĩa lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội cũng rất ít. Ðội ngũ cán bộ đông nhưng chất lượng không cao, các công bố quốc tế của nước ta rất thấp, thiếu chính sách khuyến khích người nghiên cứu - triển khai và cả người ứng dụng kết quả nghiên cứu - triển khai.
Sở dĩ kết quả ứng dụng của KH-CN Việt Namchưa cao, là do đầu tư cho lĩnh vực này ở Việt Nam của Nhà nước còn thấp. Phần lớn doanh nghiệp ở nước ta đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có điều kiện đầu tư cho KH-CN. Ðể KH-CN thực sự trở thành động lực kinh tế, Việt Nam cần phải triệt để đổi mới trong cách quản lý. Chính phủ đã giao các tổ chức KH-CN quyền tự chủ rất cao, cả về tài chính, tổ chức, biên chế. Vấn đề là phải sớm hình thành một hệ thống doanh nghiệp KH-CN. Ðây là một loại hình doanh nghiệp mới, do các nhà khoa học lập ra, ứng dụng kết quả nghiên cứu để làm ra sản phẩm có hàm lượng chất xám cao. Ðây được coi là con đường ngắn nhất để đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Một thí dụ điển hình là Viện Máy và Dụng cụ Công nghiệp. Năm 2002, viện này được thí điểm hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Viện là công ty mẹ, trong viện có nhiều công ty con. Trong vòng 5 năm qua, doanh số của viện đã tăng từ một vài chục tỷ đồng lên đến gần 1.000 tỷ đồng. Một thí dụ khác là Công ty Sơn tổng hợp Hải Phòng, trong 5 năm qua đã tăng doanh số lên hơn 10 lần, đạt gần 400 tỷ đồng năm 2007.
Bên cạnh đó, phải đổi mới về cơ chế tài chính, cho phép các nhà khoa học có quyền tự chủ cao hơn trong sử dụng kinh phí của Nhà nước, được linh hoạt chuyển đổi thuận lợi nội dung nghiên cứu, cũng như mời chuyên gia nước ngoài vào hợp tác nghiên cứu trong nước. Nhà nước nên xác định những đề tài có ảnh hưởng lớn đến đất nước, coi đó như nhiệm vụ KH-CN của quốc gia. Từ đó hình thành những tập thể nghiên cứu mạnh, giao cho nhà khoa học quyền tự chủ cao, bằng cách giao cho một chủ trì một dự án lớn, được giao một khoản kinh phí đủ lớn, được quyền mời các nhà khoa học từ đơn vị khác đến cùng làm việc nếu thấy họ làm được việc và người chủ trì thực hiện nhiệm vụ tự quyết định mức lương trả cho họ, chứ không phải hưởng lương theo ngạch bậc thông thường. Như thế, tập thể các nhà khoa học phát huy tính năng động, hoàn toàn chủ động. Ngoài ra, các nhà khoa học sẽ được xem xét giao sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản trí tuệ có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước. Khi đó, nhà khoa học có thể sử dụng tài sản trí tuệ, kết quả nghiên cứu để mua bán, chuyển nhượng, góp vốn hoặc lập doanh nghiệp để sản xuất kinh doanh. Theo kinh nghiệm của các nước, có như thế mới có thể triển khai thành công các dự án lớn. Ðối với người ứng dụng sản phẩm của dự án sản xuất thử nghiệm cần có chính sách ưu đãi như cho họ được quyền sử dụng thuế lợi tức trong quá trình sản xuất - kinh doanh của mình để đầu tư trang bị các sản phẩm công nghệ sản xuất trong nước.








