Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 22/03/2006 14:52 (GMT+7)

Con người của thế giới hiện đại

Cuộc tiếp xúc với châu Âu đã từng là nội dung lịch sử của phần còn lại của thế giới. Tuỳ theo cách đối phó mà các dân tộc bản địa ở các lục địa còn lại có thể tồn tại hoặc bị diệt vong (như ở Tân lục địa và châu Đại dương), bị nô dịch (như nhiều dân tộc ở châu Á), giữ được chủ quyền (như ở Thái Lan) hay thậm chí trở thành cường quốc (như Nhật Bản). Vấn đề sống còn đối với cả thế giới còn lại đó là xây dựng được một hệ tư tưởng mới để đối phó với cái sức mạnh rất khó kháng cự lại này. Nội dung tư tưởng chủ đạo của châu Á, là nơi đã từng có một nền văn minh sớm hơn và rực rỡ hơn châu Âu, trong cuộc gặp gỡ này, thể hiện thành những trào lưu cách tân kéo dài ít nhất suốt cả hai thế kỷ XIX và XX. Chỉ đến giữa thế kỷ XX, châu Á mới tìm được những giải pháp thích hợp thanh toán được cái quá khứ nô dịch và lệ thuộc. Nhưng từ ba thập niên cuối thế kỷ XX và sang thế kỷ XXI, vấn đề lại đặt lại, còn nóng bỏng hơn trước: “Tồn tại hay không tồn tại”, lệ thuộc vào một cách cách tân thích hợp với một sự đổi mới của phương Tây trong trào lưu mới này là thời đại “hậu công nghiệp”. Lại một thử thách mới nữa đối với phương Đông, nhất là đối với những nước phương Đông theo chủ nghĩa xã hội.

Nguyễn Trường Tộ là con người duy nhất ở Việt Nam qua 58 bản di thảo đã trình bày một nhận thức đầy đủ về tình hình Việt Nam, những bất lợi của nó trước tình hình mới và những biện pháp để thay đổi tình hình về mọi mặt chính trị, ngoại giao, học thuật, kinh tế, quân sự, văn hoá. Cho đến nay, sau 150 năm, cũng không có mấy người nêu lên được một bản trình bày tổng quan đầy đủ như vậy. Bản tổng quan của Nguyễn Trường Tộ là hiện đại theo phương pháp luận của khoa học hiện đại, mặc dù vào thời ông, chưa có ai tiến hành nghiên cứu thực tế theo phương pháp này. Con người Nguyễn Trường Tộ là hiện đại và tấm gương Nguyễn Trường Tộ là hình ảnh của con người nghị lực vô song, tin vào khoa học, vào khả năng hoán cải thực tế bằng trí tuệ, bất chấp mọi thành kiến, mọi gian khổ, mọi trở lực. Ông chính là loại người phá công lệ cần thiết cho cuộc đổi mới trước mắt.

Tôi nói trước đến cái học của Nguyễn Trường Tộ. Nguyễn Trường Tộ có học chữ Hán rồi học chữ Pháp, có sang Pháp và có mặt ở Đà Nẵng năm 1858, như vậy là cái học chữ Pháp của ông không nhiều và có sang Pháp cũng chỉ học về thần học mà thôi. Về cái học chữ Hán thì bằng chứng không thể chối cãi là các bản điều trần của ông. Các bản này tôi đã được thầy Đào Duy Anh cho mượn vào năm 1943. Cha tôi (đỗ giải nguyên, rồi phó bảng) đọc nó rồi nói với tôi: “Riêng về chữ Hán thôi, cậu không viết nổi một chữ Hán khúc triết, rắn rỏi đến như vậy”. Ông hỏi ý kiến bác Huỳnh Thúc Kháng, hoàng giáp, thủ khoa thi hương, thi hội, chỉ thi đình mới đỗ thứ ba, bác Huỳnh cũng thừa nhận như thầy tôi. Vào thời của Nguyễn Trường Tộ, một bài văn chữ Hán dù có nội dung hay đến mấy mà văn viết kém thì không ai đọc. Vậy Ông là người tự học theo một mục đích duy nhấtnắm cho được những hiểu biết về lịch sử, xã hội, chính trị và các khoa học thiên văn, địa lý, khai khoáng, kiến trúc… Để thay đổi đất nước chứ không phải để làm quan. Đây chính là quan điểm học mà thời đại mới cần đến. Ông trở thành cái cầu nối giữa hai nền văn minh Đông và Tây đối lập nhau về nhiều điểm. Đối với ông, cái học nhà trường chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích cuội đời là “ đền nợ non sông”. Ông không có một bằng nào hết, một sự nâng đỡ nào hết, một chỗ dựa nào hết để thực hiện điều sở học. Trái lại, mọi thực tế đều chống lại cái học ấy. Nhưng ông vẫn theo đuổi đến cùng cái học cứu nước. Đây chẳng phải là tấm gương sáng về con đường học vấn và ý nghĩa của học vấn đối với thời đại chúng ta sao?

Điều hiện đại thứ hai là ở phương pháp tư duy của Nguyễn Trường Tộ. Ông là người đầu tiên ở châu Á biết áp dụng một kiểu tư duy mới, hoàn toàn trái ngược với lối tư duy giáo điều chỉ để minh hoạ một chân lý có sẵn và xong xuôi. Đây là cách tư duy để phát hiện chân lý mới bằng tim tòi của bản thân. Đây là phương pháp đối lập không ngừng để tìm ra những quan hệ khách quan và lịch sử nhằm khẳng định những nét khu biệt. Ông đối lập phương Đông với phương Tây hiện nay, những nhược điểm của Việt Nam và phương Đông đối lập với những chỗ mạnh của phương Tây. Một khi tìm được nét khu biệt rồi thì đưa ra những cách làm để thay đổi hoàn cảnh bất lợi hiện tại của Việt Nam, tức là những thao tác, bởi vì theo ông, không có cái gì là bất biến ở tự nó cả, mọi tình trạng lạc hậu hiện nay của Việt Nam đều xuất phát từ một cách nhận định thực tế không đúng với thực tế. Chỉ cần thay đổi cách nhận định là con người có thể chuyển cái thực tế bất lợi thành một thực tế có lợi để dành lại độc lập và phồn vinh của đất nước. Ông là người đầu tiên khẳng định con đường vượt gộp để đổi mới đất nước. Theo như tôi biết, ông là nhà thao tác luận đầu tiên của phương Đông, vì ở đâu đâu, ông cũng nêu lên những biện pháp thực hành chứ không bó hẹp vào việc khen chê, kêu gọi tình cảm. Ông là người đầu tiên đã cấp cho các thế hệ sau này một nhận thức toàn diện về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá Việt Nam, trong đó từng mặt một được trình bày khách quan, chẳng hạn về kinh tế, ông nói đến mọi cái lợi về biển, rừng, mỏ, ruộng, các nghề đánh cá, tơ tằm v.v… Đòi hỏi điều này ở một người theo đầu óc phương Tây chú ý đến thực tế đã là khó, mà đòi hỏi nó ở một người theo học vấn xưa chỉ biết có từ chương điển cố thì gần như là không tưởng. Thế mà thực tế một người không thi khoa cử có thể viết được những bài Hán văn mà chính những ông hoàng giáp phải phục. Cái gì khiến cho ông học đủ mọi kiến thức, thiên văn, địa lý, kỹ thuật mỏ, cách đào sông, cách xây nhà, cách trị nước, cách quản lý thương nghiệp, tài chính v.v…? Cái học mênh mông ấy không liên quan đến việc kiếm sống mà lại liên quan tới một lý tưởng khác: tìm mọi cách cứu nước Việt Nam trong hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc mất nước đến nơi, giữa một triều đình chủ quan, giáo điều theo một học thuyết Tống nho chết cứng.

Ông là con người hiện đại ở điểm mọi nhận xét của ông đều có căn cứ và xây dựng trên một ý thức phê phán độc lập.Tôi gọi ông là “kỳ nhân” vì có một con người như thế ngay ở thời đại hậu công nghiệp hiện nay đã là hiếm thấy, làm sao con người ấy với phương pháp tư duy hiện đại như vậy lại có thể xuất hiện vào giai đoạn một nước Việt Nam bị Tống Nho trói buộc dưới thời đại quân chủ chuyên chế, trong đó triều đình thi hành chính sách bế quan toả cảng, bóp chết thương nghiệp, với một hàng ngũ quan lại tự túc, tự mãn? Chính ở ông hơn một người nào khác, tôi rút ra được cái yếu tố tạo thành tính phi thường của con người Việt Nam .

Nguyễn Trường Tộ không phải con người duy nhất ý thức được cái nguy cơ mất nước và yêu cầu triều đình thực hiện những cải cách. Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch cũng đã có những đề nghị cách tân, nhưng chỉ có các đề nghị của Nguyễn Trường Tộ dựa trên một phân tích khách quan, khoa học, khẳng định lòng tin vào thắng lợi nhất định sẽ đến. Cái mới của Nguyễn Trường Tộ là lòng tự tin cao độ vào những ý kiến của mình, dám nói và dám làm. Ông dám nhận trách nhiệm đương đầu với mọi khó khăn để đổi mới đất nước, dù trong việc mở trường dạy kỹ thuật đào sông, nông nghiệp, kiến trúc. Ông luôn luôn vững tin vào khoa học, vào trí tuệ mình, nhất là vào nhân dân mình sẽ nhanh chóng vượt qua nghèo khổ, lạc hậu để xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, tuy tạm thời chịu hoà, chịu lún nhưng nhất định không chịu khuất phục trước bạo lực của phương Tây. Thái độ ấy khiến ông dám đứng lên bất chấp những trở lực gần như không thể vượt được liên quan tới thân phận của ông, một người theo công giáo, đã học ở phương Tây, đã làm việc ba năm ở soái phủ của Pháp, sống giữa những kỳ thị về thành phần, lý lịch, tôn giáo của một xã hội đầy thành kiến.

Gần đây, tôi có đọc công trình của hai Việt kiều Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc, “ Nguyễn Trường Tộ - thực chất con người và di thảo”, chứng minh ông là một tên Việt gian mượn cớ đi con đường chủ hoà để giúp Pháp chiếm Việt Nam. Theo tôi, mọi tên Việt gian đều chỉ muốn kiếm lợi cho mình. Nếu Nguyễn Trường Tộ muốn theo Tây thì với cái học ấy, cái tài ấy, ông thừa sức ngồi một chỗ để làm một Nguyễn Thân. Việc gì phải dâng hết bản điều trần này đến bản điều trần khác. Cứ để triều đình chủ hoà theo lối họ đang thực hiện là tốt nhất; việc gì ngày 18-3-1871, ông phải dâng thư vạch kế hoạch thu hồi 6 tỉnh, nhân lúc Pháp bại trận bị thua Đức, vua Pháp bị cầm tù, công xã Paris nổi dậy; việc gì ngày 9-3-1871, ông phải thảo kế hoạch đánh úp thành Gia Định và nói: “Thời cơ đến rồi, thời khó được mà dễ mất, chớ để sang năm?”. Biến cố ở Pháp năm 1871, chính là thời cơ nghìn năm có một và chỉ có Nguyễn Trường Tộ, người nắm vững phương Tây mới đề nghị lợi dụng thời cơ này. Việc gì ông phải sống nghèo khổ và chết hộc máu vì tức tối?

Trước nguy cơ quân Pháp xâm chiếm Việt Nam , có hai khả năng đối phó. Một là chiến, hai là hoà. Nhưng chiến phải ra chiến, tức là theo đúng chiến lược chiến tranh nhân dân của thời Trần, thời Lê Lợi. Điều này đã được thực hiện khi quân Pháp đánh Đà Nẵng năm 1858 và đã giành thắng lợi. Như vậy, không phải Việt Nam không có khả năng đánh bại quân xâm lược. Nếu sau khi mất ba tỉnh miền Đông, ta vẫn thi hành chính sách này thì sẽ thắng lợi. Nhưng nhân dân dám tử chiến mà triều đình lại chống lại nguyện vọng này, chủ hoà và ký hiệp ước bỏ ba tỉnh miền Đông, thậm chí trừng trị cả những người tự động nổi dậy như Trương Định. Như vậy là Việt Nam lâm vào cái hoạ mất nước đã được Trần Hưng Đạo báo trước cách đó 600 năm: “Nếu giặc đến đánh ồ ạt thì không đáng sợ”. Khi Nguyễn Trường Tộ trốn khỏi soái phủ Sài Gòn thì chính sách chủ hoà đã hình thành và nguy cơ mất nước đã lộ rõ. Một triều đình với những ông vua có hàng trăm bà vợ, các quan hàng chục cô hầu làm gì có đủ tinh thần theo đuổi một cuộc kháng chiến cầm chắc gian khổ? Còn chiến theo phái chủ chiến như Tôn Thất Thuyết thì chẳng có kế hoạch gì hết. Chiến đấu trong khi triều đình lâm vào những xung đột nội bộ, bốn tháng thay ba vua, không chuẩn bị cơ sở chu đáo, để mất thủ đô, ký hoà ước đầu hàng rồi mới nổi dậy, thì làm sao có thể thắng được?

Còn hoà thì phải dự kiến trước; hoà chỉ là tạm thời, phải chấn chỉnh đất nước, cách tân nó để chuẩn bị thời cơ giành lại đất nước. Nguyễn Trường Tộ là người nêu lên chiến lược chủ hoà để đổi mới đất nước, giành lại chủ quyền, không phải để đầu hàng. Phải hoà để chờ thời cơ và khi thời cơ đến thì phải quyết tâm chiến đấu. Thời cơ đã đến vào năm 1871 và Nguyễn Trường Tộ chứ không phải ai khác đề nghị đánh.

Những ý kiến cải cách của Nguyễn Trường Tộ đều có cơ sở thực tế. Quan điểm ngoại giao nhiều phía, lợi dụng mâu thuẫn giữa các đế quốc là chuyện thực hiện được, và nhờ đó, Thái Lan, Nhật Bản đã giữ được chủ quyền. Quan điểm sử dụng giám mục Gauthier để mở trường kỹ thuật là có cơ sở. Trong hoàn cảnh cần kỹ thuật, và đề phòng việc các giám mục lợi dụng tin cậy để truyền bá đạo là chuyện làm được. Chẳng phải nhiều người cộng sản đã xuất thân từ những trường học của người Pháp, trong đó có cả những trường công giáo sao? Cách nhìn của hai ông bạn Việt kiều xem công giáo là đối tượng phải cảnh giác rất gần thái độ “bình Tây sát tả” chẳng phù hợp với quan điểm cách mạng.

Về từng điểm một, trong lý luận cách tân của Nguyễn Trường Tộ, có điểm cần phải bàn, nhưng phải bàn với thái độ thực sự cầu thị, không thể với thành kiến một chiều để tỏ ra là mới mẻ sáng suốt được. Tôi xin kết thúc lời giới thiệu bằng chính nhận xét của Hồ Chí Minh về Nguyễn Trường Tộ mà tôi nghĩ dù có ác ý đến đâu cũng không thể nào bác bỏ được:

“Ngày xưa, thời Tự Đức, có ông Nguyễn Trường Tộ là một giáo dân yêu nước… Ngày ấy, triều đình không lắng nghe ông ta. Giá như biết làm theo một số điều kiến nghị của ông thì đã bớt được nhiều khó khăn.

Nguồn: Xưa và Nay, số 91, tháng 5/2001, tr 14 - 16

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

An Giang: Hoàn thiện khung hệ giá trị văn hóa trong kỷ nguyên mới
Ngày 26/12, Trường Chính trị Tôn Đức Thắng phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức hội thảo: “Xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hóa, con người An Giang thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong kỷ nguyên mới”. TS. Hồ Ngọc Trường - Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị Tôn Đức Thắng; Bà Nguyễn Thị Hồng Loan - Phó Trưởng Ban TG&DV Tỉnh ủy đồng Chủ trì hội thảo
Đảng, Nhà nước tặng quà nhân dịp chào mừng Đại hội XIV của Đảng và Tết Bính Ngọ
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký công điện số 418 ngày 28/12/2025 về việc tặng quà của Đảng, Nhà nước nhân dịp chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Tết Nguyên đán Bính Ngọ năm 2026 cho người có công với cách mạng, các đối tượng bảo trợ xã hội, hưu trí xã hội và đối tượng yếu thế khác.
Lào Cai: Hội nghị triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2026
Chiều 28/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh tổ chức hội nghị Ban Chấp hành nhằm đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2025; thảo luận, thống nhất phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2026 và quyết định một số nội dung theo thẩm quyền.
Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.