Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 22/03/2006 14:52 (GMT+7)

Con người của thế giới hiện đại

Cuộc tiếp xúc với châu Âu đã từng là nội dung lịch sử của phần còn lại của thế giới. Tuỳ theo cách đối phó mà các dân tộc bản địa ở các lục địa còn lại có thể tồn tại hoặc bị diệt vong (như ở Tân lục địa và châu Đại dương), bị nô dịch (như nhiều dân tộc ở châu Á), giữ được chủ quyền (như ở Thái Lan) hay thậm chí trở thành cường quốc (như Nhật Bản). Vấn đề sống còn đối với cả thế giới còn lại đó là xây dựng được một hệ tư tưởng mới để đối phó với cái sức mạnh rất khó kháng cự lại này. Nội dung tư tưởng chủ đạo của châu Á, là nơi đã từng có một nền văn minh sớm hơn và rực rỡ hơn châu Âu, trong cuộc gặp gỡ này, thể hiện thành những trào lưu cách tân kéo dài ít nhất suốt cả hai thế kỷ XIX và XX. Chỉ đến giữa thế kỷ XX, châu Á mới tìm được những giải pháp thích hợp thanh toán được cái quá khứ nô dịch và lệ thuộc. Nhưng từ ba thập niên cuối thế kỷ XX và sang thế kỷ XXI, vấn đề lại đặt lại, còn nóng bỏng hơn trước: “Tồn tại hay không tồn tại”, lệ thuộc vào một cách cách tân thích hợp với một sự đổi mới của phương Tây trong trào lưu mới này là thời đại “hậu công nghiệp”. Lại một thử thách mới nữa đối với phương Đông, nhất là đối với những nước phương Đông theo chủ nghĩa xã hội.

Nguyễn Trường Tộ là con người duy nhất ở Việt Nam qua 58 bản di thảo đã trình bày một nhận thức đầy đủ về tình hình Việt Nam, những bất lợi của nó trước tình hình mới và những biện pháp để thay đổi tình hình về mọi mặt chính trị, ngoại giao, học thuật, kinh tế, quân sự, văn hoá. Cho đến nay, sau 150 năm, cũng không có mấy người nêu lên được một bản trình bày tổng quan đầy đủ như vậy. Bản tổng quan của Nguyễn Trường Tộ là hiện đại theo phương pháp luận của khoa học hiện đại, mặc dù vào thời ông, chưa có ai tiến hành nghiên cứu thực tế theo phương pháp này. Con người Nguyễn Trường Tộ là hiện đại và tấm gương Nguyễn Trường Tộ là hình ảnh của con người nghị lực vô song, tin vào khoa học, vào khả năng hoán cải thực tế bằng trí tuệ, bất chấp mọi thành kiến, mọi gian khổ, mọi trở lực. Ông chính là loại người phá công lệ cần thiết cho cuộc đổi mới trước mắt.

Tôi nói trước đến cái học của Nguyễn Trường Tộ. Nguyễn Trường Tộ có học chữ Hán rồi học chữ Pháp, có sang Pháp và có mặt ở Đà Nẵng năm 1858, như vậy là cái học chữ Pháp của ông không nhiều và có sang Pháp cũng chỉ học về thần học mà thôi. Về cái học chữ Hán thì bằng chứng không thể chối cãi là các bản điều trần của ông. Các bản này tôi đã được thầy Đào Duy Anh cho mượn vào năm 1943. Cha tôi (đỗ giải nguyên, rồi phó bảng) đọc nó rồi nói với tôi: “Riêng về chữ Hán thôi, cậu không viết nổi một chữ Hán khúc triết, rắn rỏi đến như vậy”. Ông hỏi ý kiến bác Huỳnh Thúc Kháng, hoàng giáp, thủ khoa thi hương, thi hội, chỉ thi đình mới đỗ thứ ba, bác Huỳnh cũng thừa nhận như thầy tôi. Vào thời của Nguyễn Trường Tộ, một bài văn chữ Hán dù có nội dung hay đến mấy mà văn viết kém thì không ai đọc. Vậy Ông là người tự học theo một mục đích duy nhấtnắm cho được những hiểu biết về lịch sử, xã hội, chính trị và các khoa học thiên văn, địa lý, khai khoáng, kiến trúc… Để thay đổi đất nước chứ không phải để làm quan. Đây chính là quan điểm học mà thời đại mới cần đến. Ông trở thành cái cầu nối giữa hai nền văn minh Đông và Tây đối lập nhau về nhiều điểm. Đối với ông, cái học nhà trường chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích cuội đời là “ đền nợ non sông”. Ông không có một bằng nào hết, một sự nâng đỡ nào hết, một chỗ dựa nào hết để thực hiện điều sở học. Trái lại, mọi thực tế đều chống lại cái học ấy. Nhưng ông vẫn theo đuổi đến cùng cái học cứu nước. Đây chẳng phải là tấm gương sáng về con đường học vấn và ý nghĩa của học vấn đối với thời đại chúng ta sao?

Điều hiện đại thứ hai là ở phương pháp tư duy của Nguyễn Trường Tộ. Ông là người đầu tiên ở châu Á biết áp dụng một kiểu tư duy mới, hoàn toàn trái ngược với lối tư duy giáo điều chỉ để minh hoạ một chân lý có sẵn và xong xuôi. Đây là cách tư duy để phát hiện chân lý mới bằng tim tòi của bản thân. Đây là phương pháp đối lập không ngừng để tìm ra những quan hệ khách quan và lịch sử nhằm khẳng định những nét khu biệt. Ông đối lập phương Đông với phương Tây hiện nay, những nhược điểm của Việt Nam và phương Đông đối lập với những chỗ mạnh của phương Tây. Một khi tìm được nét khu biệt rồi thì đưa ra những cách làm để thay đổi hoàn cảnh bất lợi hiện tại của Việt Nam, tức là những thao tác, bởi vì theo ông, không có cái gì là bất biến ở tự nó cả, mọi tình trạng lạc hậu hiện nay của Việt Nam đều xuất phát từ một cách nhận định thực tế không đúng với thực tế. Chỉ cần thay đổi cách nhận định là con người có thể chuyển cái thực tế bất lợi thành một thực tế có lợi để dành lại độc lập và phồn vinh của đất nước. Ông là người đầu tiên khẳng định con đường vượt gộp để đổi mới đất nước. Theo như tôi biết, ông là nhà thao tác luận đầu tiên của phương Đông, vì ở đâu đâu, ông cũng nêu lên những biện pháp thực hành chứ không bó hẹp vào việc khen chê, kêu gọi tình cảm. Ông là người đầu tiên đã cấp cho các thế hệ sau này một nhận thức toàn diện về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá Việt Nam, trong đó từng mặt một được trình bày khách quan, chẳng hạn về kinh tế, ông nói đến mọi cái lợi về biển, rừng, mỏ, ruộng, các nghề đánh cá, tơ tằm v.v… Đòi hỏi điều này ở một người theo đầu óc phương Tây chú ý đến thực tế đã là khó, mà đòi hỏi nó ở một người theo học vấn xưa chỉ biết có từ chương điển cố thì gần như là không tưởng. Thế mà thực tế một người không thi khoa cử có thể viết được những bài Hán văn mà chính những ông hoàng giáp phải phục. Cái gì khiến cho ông học đủ mọi kiến thức, thiên văn, địa lý, kỹ thuật mỏ, cách đào sông, cách xây nhà, cách trị nước, cách quản lý thương nghiệp, tài chính v.v…? Cái học mênh mông ấy không liên quan đến việc kiếm sống mà lại liên quan tới một lý tưởng khác: tìm mọi cách cứu nước Việt Nam trong hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc mất nước đến nơi, giữa một triều đình chủ quan, giáo điều theo một học thuyết Tống nho chết cứng.

Ông là con người hiện đại ở điểm mọi nhận xét của ông đều có căn cứ và xây dựng trên một ý thức phê phán độc lập.Tôi gọi ông là “kỳ nhân” vì có một con người như thế ngay ở thời đại hậu công nghiệp hiện nay đã là hiếm thấy, làm sao con người ấy với phương pháp tư duy hiện đại như vậy lại có thể xuất hiện vào giai đoạn một nước Việt Nam bị Tống Nho trói buộc dưới thời đại quân chủ chuyên chế, trong đó triều đình thi hành chính sách bế quan toả cảng, bóp chết thương nghiệp, với một hàng ngũ quan lại tự túc, tự mãn? Chính ở ông hơn một người nào khác, tôi rút ra được cái yếu tố tạo thành tính phi thường của con người Việt Nam .

Nguyễn Trường Tộ không phải con người duy nhất ý thức được cái nguy cơ mất nước và yêu cầu triều đình thực hiện những cải cách. Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch cũng đã có những đề nghị cách tân, nhưng chỉ có các đề nghị của Nguyễn Trường Tộ dựa trên một phân tích khách quan, khoa học, khẳng định lòng tin vào thắng lợi nhất định sẽ đến. Cái mới của Nguyễn Trường Tộ là lòng tự tin cao độ vào những ý kiến của mình, dám nói và dám làm. Ông dám nhận trách nhiệm đương đầu với mọi khó khăn để đổi mới đất nước, dù trong việc mở trường dạy kỹ thuật đào sông, nông nghiệp, kiến trúc. Ông luôn luôn vững tin vào khoa học, vào trí tuệ mình, nhất là vào nhân dân mình sẽ nhanh chóng vượt qua nghèo khổ, lạc hậu để xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, tuy tạm thời chịu hoà, chịu lún nhưng nhất định không chịu khuất phục trước bạo lực của phương Tây. Thái độ ấy khiến ông dám đứng lên bất chấp những trở lực gần như không thể vượt được liên quan tới thân phận của ông, một người theo công giáo, đã học ở phương Tây, đã làm việc ba năm ở soái phủ của Pháp, sống giữa những kỳ thị về thành phần, lý lịch, tôn giáo của một xã hội đầy thành kiến.

Gần đây, tôi có đọc công trình của hai Việt kiều Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc, “ Nguyễn Trường Tộ - thực chất con người và di thảo”, chứng minh ông là một tên Việt gian mượn cớ đi con đường chủ hoà để giúp Pháp chiếm Việt Nam. Theo tôi, mọi tên Việt gian đều chỉ muốn kiếm lợi cho mình. Nếu Nguyễn Trường Tộ muốn theo Tây thì với cái học ấy, cái tài ấy, ông thừa sức ngồi một chỗ để làm một Nguyễn Thân. Việc gì phải dâng hết bản điều trần này đến bản điều trần khác. Cứ để triều đình chủ hoà theo lối họ đang thực hiện là tốt nhất; việc gì ngày 18-3-1871, ông phải dâng thư vạch kế hoạch thu hồi 6 tỉnh, nhân lúc Pháp bại trận bị thua Đức, vua Pháp bị cầm tù, công xã Paris nổi dậy; việc gì ngày 9-3-1871, ông phải thảo kế hoạch đánh úp thành Gia Định và nói: “Thời cơ đến rồi, thời khó được mà dễ mất, chớ để sang năm?”. Biến cố ở Pháp năm 1871, chính là thời cơ nghìn năm có một và chỉ có Nguyễn Trường Tộ, người nắm vững phương Tây mới đề nghị lợi dụng thời cơ này. Việc gì ông phải sống nghèo khổ và chết hộc máu vì tức tối?

Trước nguy cơ quân Pháp xâm chiếm Việt Nam , có hai khả năng đối phó. Một là chiến, hai là hoà. Nhưng chiến phải ra chiến, tức là theo đúng chiến lược chiến tranh nhân dân của thời Trần, thời Lê Lợi. Điều này đã được thực hiện khi quân Pháp đánh Đà Nẵng năm 1858 và đã giành thắng lợi. Như vậy, không phải Việt Nam không có khả năng đánh bại quân xâm lược. Nếu sau khi mất ba tỉnh miền Đông, ta vẫn thi hành chính sách này thì sẽ thắng lợi. Nhưng nhân dân dám tử chiến mà triều đình lại chống lại nguyện vọng này, chủ hoà và ký hiệp ước bỏ ba tỉnh miền Đông, thậm chí trừng trị cả những người tự động nổi dậy như Trương Định. Như vậy là Việt Nam lâm vào cái hoạ mất nước đã được Trần Hưng Đạo báo trước cách đó 600 năm: “Nếu giặc đến đánh ồ ạt thì không đáng sợ”. Khi Nguyễn Trường Tộ trốn khỏi soái phủ Sài Gòn thì chính sách chủ hoà đã hình thành và nguy cơ mất nước đã lộ rõ. Một triều đình với những ông vua có hàng trăm bà vợ, các quan hàng chục cô hầu làm gì có đủ tinh thần theo đuổi một cuộc kháng chiến cầm chắc gian khổ? Còn chiến theo phái chủ chiến như Tôn Thất Thuyết thì chẳng có kế hoạch gì hết. Chiến đấu trong khi triều đình lâm vào những xung đột nội bộ, bốn tháng thay ba vua, không chuẩn bị cơ sở chu đáo, để mất thủ đô, ký hoà ước đầu hàng rồi mới nổi dậy, thì làm sao có thể thắng được?

Còn hoà thì phải dự kiến trước; hoà chỉ là tạm thời, phải chấn chỉnh đất nước, cách tân nó để chuẩn bị thời cơ giành lại đất nước. Nguyễn Trường Tộ là người nêu lên chiến lược chủ hoà để đổi mới đất nước, giành lại chủ quyền, không phải để đầu hàng. Phải hoà để chờ thời cơ và khi thời cơ đến thì phải quyết tâm chiến đấu. Thời cơ đã đến vào năm 1871 và Nguyễn Trường Tộ chứ không phải ai khác đề nghị đánh.

Những ý kiến cải cách của Nguyễn Trường Tộ đều có cơ sở thực tế. Quan điểm ngoại giao nhiều phía, lợi dụng mâu thuẫn giữa các đế quốc là chuyện thực hiện được, và nhờ đó, Thái Lan, Nhật Bản đã giữ được chủ quyền. Quan điểm sử dụng giám mục Gauthier để mở trường kỹ thuật là có cơ sở. Trong hoàn cảnh cần kỹ thuật, và đề phòng việc các giám mục lợi dụng tin cậy để truyền bá đạo là chuyện làm được. Chẳng phải nhiều người cộng sản đã xuất thân từ những trường học của người Pháp, trong đó có cả những trường công giáo sao? Cách nhìn của hai ông bạn Việt kiều xem công giáo là đối tượng phải cảnh giác rất gần thái độ “bình Tây sát tả” chẳng phù hợp với quan điểm cách mạng.

Về từng điểm một, trong lý luận cách tân của Nguyễn Trường Tộ, có điểm cần phải bàn, nhưng phải bàn với thái độ thực sự cầu thị, không thể với thành kiến một chiều để tỏ ra là mới mẻ sáng suốt được. Tôi xin kết thúc lời giới thiệu bằng chính nhận xét của Hồ Chí Minh về Nguyễn Trường Tộ mà tôi nghĩ dù có ác ý đến đâu cũng không thể nào bác bỏ được:

“Ngày xưa, thời Tự Đức, có ông Nguyễn Trường Tộ là một giáo dân yêu nước… Ngày ấy, triều đình không lắng nghe ông ta. Giá như biết làm theo một số điều kiến nghị của ông thì đã bớt được nhiều khó khăn.

Nguồn: Xưa và Nay, số 91, tháng 5/2001, tr 14 - 16

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.