Con lợn trong phong tục người Việt qua ngôn ngữ ca dao
Con lợn đã đi vào phong tục tập quán của người Việt. Cách thức chế biến, nấu nướng các món ăn từ thịt các con vật được thể hiện sinh động, rất dí dỏm trong bài ca dao dưới dây:
Con gà tục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Mẹ ơi, đi chợ mua tôi đồng riềng
(C 635 KTCDNV)
Ba con vật: gà, lợn, chó được đóng vai như những nhân vật hồn nhiên, nói lên yêu cầu bằng một thứ ngôn ngữ của loài mình. Lá chanh, củ hành với lá hành, củ riềng là những thứ gia vị phù hợp với việc chế biến thịt các con vật trên. Đặc biệt là hành phi với mỡ, hành ướp vào miếng thịt lợn rồi áp chảo tạo nên một vị thơm rất hấp dẫn, ngửi đã thấy thèm ăn. Chả thế mà trong truyện cười Tao thèm quá, một con lợn bị giết thịt xuống âm phủ đến gặp Diêm Vương kiện tội ác của người. Diêm Vương bắt con lợn phải kể trình tự chi tiết bị thịt. Khi kể đến đoạn con người xẻ lợn ra từng miến, phi hành mỡ rồi đem từng miếng thịt áp chảo, cảm giác cái mùi thơm của thịt lợn phi hành áp chảo xông lên giác quan, Diêm Vương không chịu nổi nên đã phải thốt lên: “ Thôi đừng kể nữa, tao thèm quá!” làm bật lên bản chất của bên ngoài tỏ ra là công minh, nhân từ.
Trong các dịp lễ tết, bốn thứ ẩm thực không thể thiếu: đó là xôi, bánh chưng, thịt lợn và rượu. Bánh chưng bao giờ cũng có nhân đậu xanh và thịt lợn ba chỉ. Xôi thường là ăn với thịt lợn luộc. Rượu uống vừa kích thích ăn ngon miệng, vừa chống ngấy thịt, lại giúp tiêu hoá tốt, lưu thông khí huyết. Bốn thứ trên thường nằm trên mâm cúng thần linh, tổ tiên. Vì thế nên các nghi lễ trọng đại, trong đó có nghi lễ cưới xin đều có các món đó. Trong bài ca dao “Xin áo”, anh chàng hứa trả công cho cô gái khâu áo bằng chính lễ vật “xin cưới” của một chàng rể tương lại”
Khâu rồi anh sẽ trả công
Đến lúc có chồng anh giúp của cho
Giúp em một thúng xôi vò
Một con lợn béo, một vò rượu tăm
(H 264 KTCDNV)
Trong các vật anh ta hứa “giúp của cho” thì “một con lợn béo” nằm trong bộ ba ẩm thực của người Việt trong dịp lễ tết là xôi vò, thịt lợn và rượu tăm. Nói về tục “thách cưới” thì ngoài tiến, áo quần, cau. lợn béo là vật phẩm thường có mặt trong lễ vật mà nhà gái đòi hỏi. Tuỳ theo “giá trị” của người con gái mà nhà gái thách cưới cao hay thấp, yêu cầu sính lễ nhiều hay ít. Bài ca dao dưới đây, khi người con gái mới “mười tám tuổi” thì bà mẹ thách cưới “cao giá” với mỗi thứ ở mức con số năm: “Tiền chẵn năm quan, cau chẵn năm ngàn, lợn béo năm con”:
- Mẹ ơi, năm nay con mười tám tuổi rồi
Chồng con chưa có mẹ thời tính sao?
Con chim khách nó mách có hai bà mối
Mẹ ngồi thách cưới:
Tiền chẵn năm quan
Cau chẵn năm ngàn
Lợn béo năm con
Áo quần năm đôi
Sính lễ của nhà trai đem đến nhà gái một phần là cho con dâu, biếu bố mẹ vợ, để bên nhà nữ thiết đãi bà con hàng xóm nên mới có xôi, lợn và rượu. Lợn được quy định rõ ràng là lợn béo. Lợn béo vừa có thịt nạc vừa có thịt mỡ. Thịt mỡ dùng trong việc chế biến các món ăn khác và làm nhân bánh chưng. Chả thế mà ông quan huyện Thanh Trì thích lấy miếng thịt mỡ hơn miếng bì:
Ông quan ở huyện Thanh Trì
Miếng mỡ thì lấy miếng bì thì chê
(Ô 31 KTCDNV)
Theo kinh nghiện dân gian thì “ con lợn có béo cỗ lòng mới ngon” mà lòng lợn lại là thức ăn khoái khẩu của người Việt. Ngày tết, một số nhà chung nhau mua một con lợn để có đủ các thứ mà ra chợ nhiều khi không đầy đủ. Con lợn là vật phẩm trong nghi lễ cưới hỏi của người Việt, nếu không có lợn thì đám cưới không được thực hiện. Gạo nếp và lợn béo là hai thứ cần thiết mà nhà trai đem đến nhà gái để tổ chức tiệc cưới. Khi gạo gánh đến nhà, lợn kêu là dấu hiệu chuẩn bị cho việc hôn lễ:
Bao giờ gạo gánh đến nhà
Lợn kêu ý oét mới là vợ anh
(B 180 KTCDNV)
Cưới hỏi là việc thiêng liêng trọng đại trong đời của một con người nhưng ngày xưa nó có khi trở thành gánh nặng cho gia đình nhà trai. Đặc biệt với người con gái đáng ra phải là niềm vui lại thành nỗi đau. Người con gái trở thành như một “món hàng gả bán”. Khi những người làm cha làm mẹ đã tham tiền của, sính lễ mà không hề quan tâm đến tình yêu và hạnh phúc của con gái mình:
Mẹ em tham thúng xôi rền
Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hưng
Tôi đã bảo mẹ rằng đừng
Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào
(M 191 KTCDNV)
Những bài ca dao trên đã phần nào thể hiện phong tục tập quán của người Việt về ẩm thực, lễ hội qua hình ảnh con lợn. Sính lễ cưới hỏi ngày xưa của người Việt vẫn được tiếp tục đến ngày nay nhưng không còn những nghi lễ và đòi hỏi nặng nề của nhà gái. Tuy nhiên, những vật phẩm cốt yếu có tính truyền thống như cau trầu (một trăm lá trầu và một trăm quả cau hoặc một trăm miếng trầu cau đã têm), rượu (một cặp), bánh trái (bánh chưng thay cho xôi) và đầu heo (với đủ các phận của con heo như đuôi, móng chân, lòng thay cho heo) vẫn được duy trì ở một số nơi trong sính lễ xin cưới mà nhà trai bưng đến nhà gái.
Tài liệu tham khảo
1. Phan Kế Bính - Việt Nam phong tục, tái bản, Nxb, H.
2. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (chủ biên - 1995) - Kho tàng ca dao người Việt, Tập 1,2,3, Nxb Văn hoá Thông tin, H. (trong bài tên sách viết được viết tắt là KTCDNV).
3. Trần Ngọc Thêm (1998) - Cơ sở văn hoá Việt Nam , Nxb GD, H.