Con dao vàng rọc lá trầu vàng…
Con dao vàng rọc lá trầu vàng
Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa
Sự tương xứng tuyệt vời của con dao - lá trầu, mắt anh - mắt nàng trong câu ca dao cho ta cảm nhận về một cái gì đó thật đẹp đẽ, sang quý. Còn cái sôi nổi, tình tứ đến vượt khuôn phép của “mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa” cho ta cảm nhận về một cuộc giao duyên hồn nhiên nơi đời sống thôn dã… Nhưng sao dân dã lại có được “con dao vàng”? Con dao màu vàng hay con dao bằng vàng? Con dao vàng thật hay con dao giả tưởng, xuất hiện bên lá trầu vàng (lá trầu ngon, trầu quý) với mục đích gợi sự tương xứng, hoà hợp đến xao xuyến lòng người…?
Khi khảo sát về ngôn ngữ nghệ thuật ca dao, chúng tôi phát hiện tính khái quát rất cao của ngôn ngữ ca dao nói chung và ngôn ngữ miêu tả có tác dụng cụ thể hoá ý nghĩa của một tín hiệu thẩm mĩ nào đó trong ca dao nói riêng. Ví dụ các yếu tố “xông hương”, “gấm”, “rách” trong các câu:
- Áo xông hương của chàng vắt mắc
Đêm em nằm em đắp lấy hơi
- Chồng ta áo rách ta thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người
Nhìn chung, sự miêu tả trong ca dao không nhằm đi sâu tái hiện hiện thực mà thường tập trung cho mục đích biểu trưng hoá nghệ thuật, làm bật lên ý nghĩa thẩm mĩ của những sự vật hiện tượng thuộc đời sống hiện thực khách quan và nội tâm được đưa vào ca dao vì mục đích thẩm mĩ. Ví dụ: ý nghĩa về cái lớn lao và những thử thách cũng lớn lao đối với con người của núi cao, biển rộng, sông sâu…; ý nghĩa về nơi gặp gỡ giao duyên của đường xa, dặm vắng, vườn hồng, chốn này, quán chín gian, cầu chín nhịp…; ý nghĩa về không gian hạnh phúc lứa đôi của chăn loan, gối phượng, chiếu miến, võng đào, nhà vàng, gác tía, lầu son v.v…Số lượng yếu tố miêu tả trong ca dao cũng không nhiều, phổ biến được thể hiện bằng một từ đơn âm tiết hoặc một nhóm hạn chế các từ ngữ mang tính khái quát cao, được sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần (như các từ miêu tả không gian chẳng hạn: caoxuất hiện 19 lần, sâu: 30 lần, dài: 17 lần, rộng: 17 lần…*), biểu đạt ý nghĩa của nhiều loại tín hiệu thẩm mĩ khác nhau:
- Rừng xanh bốn bể cũng xanh
Để xem cây quế ngả nhành về đâu
Đó là kiểu miêu tả mang tính khuôn mẫu, tạo nên tính khái quát, tính ước lệ cho ngôn ngữ ca dao. Bởi vậy ca dao có “sông rộng”, lại có “biển rộng”, “trời rộng”, “truông rộng”, “đồng rộng”…; có “sông sâu” lại có “biển sâu”, “vực sâu”, “hang sâu”…; có “mâm vàng”, “nhà vàng”, lại cũng có “dao vàng”, “trầu vàng”… Lung linh hơn có “ánh trăng vàng”:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
Và huyền diệu hơn, có “gió vàng”:
Gió vàng hiu hắt đêm thanh
Đường xa dặm vạn xin anh đừng về
Mảnh trăng đã trót lời thề
Làm chi để gánh nặng nề riêng ai
Thật khó hình dung ý nghĩa cụ thể của “gió vàng”,. Không phải là ngọn gió màu vàng, cũng không thể là ngọn gió bằng vàng. Chỉ có thể cảm nhận được ý nghĩa của ngọn gió trong sự hoà điệu của cái buồn thương man mác của đêm, của đường xa dặm vắng, của lời thề đã trót, của gánh nặng nề riêng ai, và lời nài xin tha thiết của người con gái: “Đường xa dặm vắng xin anh đừng về”… Cả cái thơ mộng, cái huyền diệu bật lên từ hai tiếng “đêm thanh” gợi một đêm thanh tính tứ khác:
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng được chăng
Đan sáng thiếp cũng xin vâng…
Mặt khác, dễ gặp trong ca dao cách miêu tả mang tính hoa mĩ về những cái bình thường trong đời sống hàng ngày: con dao vàng, lá trầu vàng, đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng, chiếu miến võng đào, chăn loan gối phượng, chiếu hoa chăn gấm, buồng loan, buồng hoa, quán chín gian, cầu chín nhịp…Đó là khi con người của ca dao đã thoát ra khỏi thế giới của thực tại vốn bình thường, lam lũ để đến với thế giới của mộng tưởng, của cái đẹp, cái sang giàu vốn chỉ có trong mơ ước. Các yếu tố miêu tả lúc này có tác dụng chuyển đời sống thực của các sự vật hiện tượng nơi đời sống dân dã vào thế giới mộng tưởng, làm cho nó trở nên lung linh hơn và không dễ gì nắm bắt.
Và như thế, trong cái ước lệ, cái khuôn mẫu của một kiểu miêu tả, ta có nhà vàng, bạn vàng, ánh trăng vàng, gió vàng,và có cả con dao vàng, lá trầu vàngmang vẻ đẹp của mộng tưởng, của đời sống hoà hợp sáng trong, đẹp đẽ, đáng mơ ước đối với người dân lao động.
Con dao vàng rọc lá trầu vàngchính là cái đẹp trong sự hoà hợp, xứng đôi vừa lứa, cũng là cái đẹp trong tính ước lệ mà đầy sức biểu cảm của ngôn ngữ nghệ thuật ca dao.
________________
Tài liệu tham khảo
* Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam .
Nguồn: Ngôn ngữ & Đời sống, số 11 (121), 2005, tr 23 - 24