Cởi “trói” cơ chế tài chính cho nhà khoa học
Thực tế khảo sát tại một số trường ĐH, doanh nghiệp, viện nghiên cứu phục vụ Đề án "Phát triển khoa học, công nghệ (KH-CN) phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế" dự kiến trình Hội nghị BCH Trung ương Đảng vào kỳ họp tháng 10.2012 mà Bộ KH-CN, Ban Tuyên giáo Trung ương thực hiện gần đây cho thấy cơ chế tài chính cho KH-CN là điểm đang vướng mắc, nhưng nếu có cách tổ chức khoa học thì vẫn xử lý tốt được công việc.
Quản lý khoa học theo kiểu hành chính
Thứ trưởng Bộ KH-CN Trần Văn Tùng cho biết, hiện nay đầu tư cho cả ngành KH-CN của Nhà nước chỉ chiếm 2% tổng chi ngân sách, tương đương 0,5% GDP. Trong khi đó, Hàn Quốc chi 3-4% GDP mà GDP của họ hơn nước ta hàng trăm lần. Nguồn vốn từ xã hội của ta cũng rất thấp, chỉ đạt khoảng 1/3 trong khi ở các nước phát triển phải là 2/3 tổng đầu tư cho KHCN. Bên cạnh đó, khoảng 40% kinh phí đầu tư phát triển không do Bộ KH-CN quản lý nên các ngành, địa phương lại giải ngân sai mục đích. Tiếp đến là tiền đầu tư cho nghiên cứu không nhiều nhưng rất dàn trải, nặng về bao cấp, chưa tập trung nguồn kinh phí cho phát triển từng nhiệm vụ, từng sản phẩm cụ thể của quốc gia để có được mặt hàng cụ thể các nhà khoa học kêu rất nhiều về cơ chế tài chính. Đề tài cấp Nhà nước trên một tỷ đồng phải làm hàng trăm chuyên đề mà nhiều chuyên đề trong đó không có giá trị, chứng từ, vô cùng phức tạp để thanh toán với tài chính. Do đó, tình trạng nói dối trong khoa học là có thật.
Nghịch lý “thừa tiền” phải trả lại trong lĩnh vực khoa học công nghệ là chuyện vẫn xảy ra. Vấn đề này đã được một lần nữa xới lên tại diễn đàn Quốc hội đang diễn ra. Thực tế cho thấy, đến giờ đã là tháng 6, các chương trình, đề tài khoa học mà Bộ KH-CN đã duyệt và trình mà kinh phí cho các chương trình, đề tài đó vẫn chưa có. Tính cho đến hết năm thì cứ cho là còn 7 tháng nữa, thì làm sao mà các nhà khoa học hoàn thành được hết nhiệm vụ của mình. Tình trạng này nếu không khắc phục thì sang năm lại thế!
Linh hoạt và chuyên trách
Cũng có ý kiến cho rằng nên có cơ chế khoán trong hoạt động KH-CN, song thực tế là không phải cái gì cũng khoán được. Hiện chỉ có Bộ NN-PTNT đang thí điểm áp dụng cơ chế khoán trong nghiên cứu vì đặc thù ngành này là có thể cho ra những sản phẩm hữu hình. Sau khi thí điểm trong ngành nông nghiệp, Chính phủ sẽ xem xét lại hiệu quả của phương thức khoán này để ban hành chính sách.
Phương thức khoán được kỳ vọng sẽ giúp tăng tính tự chủ trong việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học, trong đó các chủ nhiệm đề tài được tự do hơn trong các hoạt động chi tiêu, miễn sao đạt được kết quả chất lượng đúng như cam kết khi được giao kinh phí. Đồng thời, phương thức khoán cũng được kỳ vọng sẽ giúp giảm tải những thủ tục hành chính trong chi nghiên cứu, tạo điều kiện cho cán bộ tập trung chuyên môn.
Áp dụng cơ chế khoán cũng phải đi kèm với định mức chi, cơ chế tài chính, phương thức thanh toán minh bạch, công khai. Tuy nhiên, khoán trồng lúa trên một thửa ruộng hay khoán xây một ngôi nhà khác với khoán thực hiện một nhiệm vụ KH-CN.
Để giải quyết tận gốc vấn đề này, GS Hoàng Văn Phong– nguyên Bộ trưởng Bộ KH-CN nhấn mạnh cần sớm hình thành đội ngũ tài chính cho KH-CN. Đội ngũ này cần có năng lực chuyên môn và hiểu biết về đặc thù tài chính trong khoa học, từ đó tư vấn và xây dựng chính sách phù hợp. Khi xảy ra những vướng mắc bất cập trong hoạt động tài chính khoa học thì những chuyên gia này sẽ là cầu nối giữa các nhà khoa học và người làm chính sách, với kinh nghiệm cần thiết để xem xét, đề xuất ý kiến tháo gỡ vấn đề. Đây cũng là cách mà Viettel đã thực hiện khá thành công. Tại tập đoàn này, người làm nghiên cứu có thể chuyên tâm vào công việc, còn vấn đề thủ tục hành chính, giải ngân… có một bộ phận chuyên trách chăm lo. Nếu có vướng mắc, họ có thể trực tiếp báo cáo Ban lãnh đạo Tổng giám đốc và được ưu tiên giải quyết sớm.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Nguyễn Quân cho rằng, trước hết tự bản thân các đơn vị nghiên cứu KH-CN cần có sự chủ động, tích cực hơn nữa trong việc thực hiện các chính sách đã ban hành, sau đó nếu có khó khăn bất cập thì có thể trình lên Thủ tướng để thực hiện thí điểm, làm tiền đề đổi mới. Về phía các ban, ngành liên quan cũng cần cởi mở và linh hoạt trong việc tạo điều kiện hoạt động cho các tổ chức nghiên cứu bằng cách hạn chế tối đa các thủ tục hành chính phiền hà rắc rối.








