Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 06/01/2012 21:12 (GMT+7)

Có hay chưa một xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay

Trải qua các thời kỳ lịch sử, có nhiều cách tiếp cận khái niệm XHDS khác nhau. Nhìn chung, các định nghĩa về XHDS đều trú trọng đến tinh thần tự nguyện của công dân trong bảo vệ các quyền lợi hợp pháp và giá trị cộng đồng. XHDS được tạo lập bởi các tổ chức dân sự kết nối giữa những cá nhân trong nhóm và các nhóm nhằm thỏa mãn nhu cầu dân sự đa dạng và phức tạp; phân biệt với xã hội chính trị và xã hội kinh tế.

XHDS là lĩnh vực sinh hoạt dân sự hình thành và phát triển trên cơ sở nền sản xuất hiện đại, là tiến bộ của xã hội loài người, trạng thái phát triển cao của nền văn hóa xã hội. XHDS là một hệ thống các tổ chức của cộng đồng công dân hình thành trên cơ sở tự nguyện của từng công dân; tổ chức và hoạt động thể hiện tính nhóm, tính cộng đồng, tính tự nguyện, tính tự quản, tính tự chủ về tài chính và phi lợi nhuận trong khuôn khổ pháp lý và đạo lý; phản ánh những giá trị của cộng đồng, xã hội và của nhân loại.

XHDS là lĩnh vực hoạt động tập thể tự nguyện nhằm chia sẻ với nhau về lợi ích và giá trị; trong đó, con người tự do thành lập các hội để tham gia vào các hoạt động dân sự. Mục đích của các hoạt động này là cùng nhau hướng tới thực hiện các lợi ích chung, những giá trị tiến bộ chung của cộng đồng, của nhân loại. Trung tâm của XHDS là các công dân trong cộng đồng xã hội nên nó không có quyền lực, chỉ các cá nhân – thành viên của XHDS mới có quyền lực mà bản chất của nó là quan hệ giữa các cá nhân với nhau và với cộng đồng trong sự điều chỉnh của đạo đức và lý trí.

XHDS là một mạng lưới dày đặc các mối tương tác và trao đổi giữa những cá nhân nhằm thỏa mãn những nhu cầu và sở thích riêng trong mối quan hệ với cộng đồng. Nó được hiện hữu bằng những tổ chức xã hội đa dạng về hình thức tổ chức, phong phú về mục tiêu cụ thể với tính nghề nghiệp, tính xã hội do sở thích và lợi ích cấu thành một nhóm; rộng hơn, thành một giai tầng với các tổ chức cộng đồng (liên hiệp, hiệp hội, hội, nhóm tình nguyện, tổ chức phi chính phủ…) thực hiện các chức năng xã hội hoặc mục đích nghề ngiệp, từ thiện, nhân đạo…nhất định.

Khác với những hoạt động kinh tế hướng theo lợi nhuận và những hoạt động chính trị hướng vào việc chiếm lĩnh và thực thi quyền lực nhà nước, đặc trưng của XHDS là định ra một khu vực đa dạng gồm những hội nhóm và tổ chức khác nhau, sự hiện hữu của một lĩnh vực công nằm giữa nhà nước, thị trường và cá nhân mà các công dân hoạt động nhằm biểu tỏ các mối quan tâm, tư tưởng, trao đổi thông tin… tương hỗ nhau thực hiện các mục tiêu chung, kiến nghị với nhà nước và buộc các viên chức nhà nước phải chị trách nhiệm trong công vụ.

XHDS nổi bật lên với nhiều tác dụng đối với nhà nước, nhưng điều cơ bản nhất là đối tác bình đẳng của nhà nước và giữ vai trò là đối quyền của quyền lực nhà nước. Đối tác, đối lập và đối quyền nhưng không đối kháng mà thực chất là tạo điều kiện để người dân thực hiện jtham gia vào việc hoạch định, thực hiện phản biện và thực hiện giám sát và kiểm tra việc thực hiện các chủ trương , chính sách của nhà nước, kể cả về phẩm chất và hành vi của công chức để nói lên tiếng nói và cái nhìn đa dạng trong xã hội nhằm giúp cho quá trình xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật của nhà nước được hoàn thiện và phù hợp hơn vói nhu cầu thực tế cuộc sống, đảm nhận cung cấp những dịch vụ hàng hóa công cộng cho cộng đồng và xã hội mà nhà nước không thể giải quyết hết được.

XHDS là một khu vực phi nhà nước, không đối lập với nhà nước mà giữa chúng quan hệ khăng khít và tác động lẫn nhau.Phối hợp với nhà nước để kiểm soát và hoàn thiện nhà nước pháp quyền và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, từng bước hoàn thiện và phát huy vai trò của xã hội dân chủ nhằm duy trì, bảo đẩm sự ổn định, cân bằng và phát triển bền vững của chế độ nhà nước, chế độ kinh tế và toàn xã hội để hiện thực hóa quyền lợi của mỗi cá nhân và từng cộng đồng.XHDS tồn tại bên cạnh nhà nước, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật và luôn chịu sự quản lí của nhà nước. Các tổ chức XHDS đều được nhà nước cho đăng kí và thủ tục thành lập có những cam kết rõ rang, minh bạch, bảo đảm pháp lý.

Như vậy, XHDS chỉ tất cả những tổ chức của cộng đồng nhân dân hợp pháp với sự gắn kết giữa các thành viên (các pháp nhân và thể nhân) bằng sự tự nguyện và tự chủ hoạt động thiên về lợi ích cộng đồng; phối hợp và đối trọng với hoạt động của nhà nước pháp quyền và nền kinh tế thị trường nhằm giải quyết những vấn đề của cộng đồng và của xã hội vì sự phát triển con người.

Từ đó, có thể hiểu: XHDS là một chỉnh thể các hệ thống những tổ chức dân sự bảo vệ và thực hiện lợi ích cả từng cộng đồng công dân, đối trọng và phối hợp hoạt động với nhà nước pháp quyền và nền kinh tế thị trường tạo ra các điều kiện tối ưu cho phát triển xã hội cân bằng, ổn định, bền vững và tiến bộ của mỗi người theo giá trị nhân loại

Vấn đề có hay Việt Nam đang có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, ở Việt Nam chưa có XHDS theo đúng nghĩa của nó, hoặc đã có XHDS ở mức thấp hay đang ở mức trung bình…

Trên cơ sở tổng hợp yếu tố cấu trúc, điều kiện hoạt động, sự tác động và hệ giá trị mà XHDS hướng đến, mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng một kết cấu XHDS có tính kết cấu đã hình thành và phát triển ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội Việt Nam.

Cùng với sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và nhà nước pháp quyền XHCN, các hình thức tập hợp nhân dân trong sinh hoạt cộng đồng ngày càng đa dạng, phong phú hơn, nhiều cung bậc hơn làm cho XHDS ở Việt Nam phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Thiết chế XHDS năng động hơn, mang tính chất “xã hội hóa” hơn, có tác dụng không chỉ ở trong nước mà cả phạm vi quốc tế.

Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, cho đến nay, các tổ chức chính trị - xã hội cấp Trung ương và địa phương có 31 triệu thành viên. Mặt trận Tổ quốc bảo trợ cho 50 tổ chức xã hội với 2 triệu đảng viên trên tổng số thành viên (không tính vào số lượng hội viên); Hội Liên hiệp Phụ nữ với hơn 12 triệu thành viên, Hội Nông dân với khoảng 8 triệu thành viên; Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam khoảng 4,2 triệu thành viên với 18 tổ chức công đoàn câp quốc gia và 6.020 tổ chức công đoàn ở địa phương; Đoàn Thanh Niên Cộng sản Hồ Chí Minh khoảng 5,1 triệu thành viên, Hội Cựu chiến binh khoảng 1,92 triệu thành viên.

Đầu thập niên 80, Việt Nam có 3 Hội nghề nghiệp: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học và Nghệ thuật Việt Nam và Liên hiệp các Hiệp hội Hòa bình, Hữu nghị và Đoàn kết Việt nam. Đến năm 2002, Việt Nam có 18.259 cơ sở của tổ chức xã hội và 1.681 cơ sở của tổ chức xã hội nghề nghiệp (1). Hàng vạn hội nghề nghiệp, hàng ngàn hiệp hội, câu lạc bộ hoạt động trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội mà chủ yếu làm từ thiện và cứu trợ nhân đạo. Tính đến tháng 6/2006, có 320 hội hoạt động trong phạm vi toàn quốc và hơn 2.150 hội hoạt động trong phạm vi tỉnh (thành) và cùng hàng nghìn hội hoạt động ở các cơ sở (2)và hàng chục vạn hội có phạm vi hoạt động tại quận, huyện, thị xã, thị trấn, xã…. (3).

Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam có khoảng 1,15 triệu hội viên với hơn 130 hội thành viên, hơn 300 đơn vị khoa học – công nghệ, tập hợp hơn 40 vạn tri thức khoa học và công nghệ ở Trung ương và 540 tổ chức thành viên địa phương; các bộ và ủy ban nhân dân khoảng 322 tổ chức, 200 quỹ xã hội, 800 tổ chức khoa học và công nghệ. Liên hiệp đã có nhiều hoạt động triển khai ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật để tăng năng suất lao động, tiết kiệm vốn và tài nguyên thiên nhiên, thay đổi tập quán sản xuất và sinh hoạt, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Liên hiệp các Hội văn học Nghệ thuật Việt Nam có 10 hội cấp Trung ương và 60 hội cấp tỉnh. Các hội sáng tạo trong Liên hiệp các Hội văn học Nghệ thuật như Hội nhà văn, Hội Nhạc sỹ, điện ảnh, kiến trúc…có hàng vạn hội viên; hoạt động chủ yếu hướng đến tạo nên những giá trị nghệ thuật, nâng cao nhận thức về cuộc sống, về cái đẹp cho mọi người, cổ vũ và động viên con người vươn lên hoàn thiện nhân cách.

Hội Chữ thập đỏ có khoảng 4,85 triệu thành viên, 3,5 triệu hội viên trong thanh niên; 14.800 hội ở xã (phường); 12.700 hội ở trường học; 1.900 hội ở văn phòng và doanh nghiệp. Hoạt động của các hội này chủ yếu là góp phần cùng Nhà nước thực hiện các chương trình, chính sách về y tế, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

Các tổ chức phi chính phủ (NGO) Việt Nam đã được thành lập trong thập niên 1990, chủ yếu ở các thành phố và ít hội viên. Các NGO hoạt động chủ yếu là trợ giúp xã hội, phục vụ cho những người nghèo, bất hạnh, các nhóm người thiệt thòi; bảo vệ quyền trẻ em và tài trợ giải quyết các vấn đề về giới…Các NGO đã trở thành đối tác quan trọng đối với các tổ chức phi chính phủ quốc tế khi vào Việt Nam tài trợ các chương trình, dự án.

Năm 1978 đã có 70 NGO quốc tế đặt quan hệ với Việt Nam (4), chủ yếu viện trợ nhân đạo (lương thực, thuốc men…), giúp khắc phục hậu quả chiến tranh. Đặc biệt năm 1986 – 1992 có 70 -100 tổ chức NGO quốc tế ; năm 1994 – 2006 số NGO quốc tế có quan hệ với Việt Nam đã tăng gấp 3 lần (từ 210 tổ chức lên 650 tổ chức, trên 500 tổ chức có hoạt động thường xuyên, có dự án và đối tác Việt Nam). Chương trình viện trợ của các NGO quốc tế được triển khai ở 61 tỉnh thành trong cả nước, đặc biệt tập trung vào các vùng còn nghèo, vùng sâu, vùng xa và ngày càng tập trung hơn vào các lĩnh vực phù hợp với các ưu tiên và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đặc biệt là xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Sự trợ giúp của các NGO nước ngoài không chỉ là viện trợ vật chất mà bao gồm cả chuyển giao kinh nghiệm, công nghệ, nâng cao dân trí, chăm sóc y tế, phổ cập giáo dục… Giá trị viện trợ tăng liên tục từ 30 triệu USD/năm (năm 1978), 40 triệu USD/ năm (năm 1993), 850 triệu USD/năm (năm 2002), 140 triệu USD/năm (năm 2004), 175 triệu USD/năm (năm 2005), 217 triệu USD/năm (năm 2006) lên 256 triệu USD/năm (năm 2008).

Các tổ chức xã hội- nghề nghiệp được thành lập ngày càng nhiều và có vai trò quan trọng trong việc liên kết tìm đầu ra cho các sản phẩm; đấu tranh bảo vệ quyền lợi trong tranh chấp thương mại trong nước và quốc tế; trợ giúp về thông tin, tuyên truyền kinh nghiệm quản lý và kỹ thuật; cung ứng nhiều dịch vụ cho hội viên, cho xã hội; tới vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn mà các tổ chức vì lợi nhuận không triển khai, Nhà nước chưa đủ điều kiện để với tới; đóng góp ý kiến nhằm thúc đẩy sự ra đời các chính sách, cơ chế…

Riêng đối với lĩnh vực kinh doanh, các doanh nghiệp ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò của các hiệp hội, hội nghề nghiệp. Hiện nay ở nước ta có khoảng 200 hội viên kinh doanh với khoảng 6.700 thành viên. Số lượng doanh nghiệp tham gia vào các hiệp hội có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Tháng 05/2008, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tiến hành khảo sát 7.820 doanh nghiệp, có đến trên 30% doanh nghiệp tư nhân là thành viên các hiệp hội; trước đó 02 năm, mới có 20% doanh nghiệp tư nhân tham gia hiệp hội. Các doanh nghiệp có quy mô càng lớn thì càng có ý thức tham gia hiệp hội. Nhiều hiệp hội như : Hiệp hội Xuất khẩu Thủy sản, Hiệp hội Dệt may…đã góp phần bảo vệ quyền lợi của các hội viên trên “sân chơi “ quốc té. Các doanh nghiệp cũng khẳng định, thông qua việc trực tiếp tham gia vào các ban soạn thảo, tổ biên tập các dự án luật, tham gia phản biện, góp ý văn bản pháp luật. gửi văn bản kiến nghị… các hiệp hội đã trở thành nhân tố tích cực trong việc cải thiện môi trường kinh doanh và phát triển của doanh nghiệp. Nhiều vướng mắc của doanh nghiệp, thông qua hiệp hội đã được các bộ, ngành chỉnh sửa tạo thuận lợi, thông thoáng hơn. Cuộc khảo sát này cũng cho thấy, trong các kênh đóng góp chỉnh sửa văn bản của các tỉnh liên quan đến doanh nghiệp, có trên 53% ý kiến cho rằng: góp ý thông qua hiệp hội doanh nghiệp và hiệp hội ngành nghề là có hiệu quả nhất, sau đó là góp ý trực tiếp (5). Hiện nay, tại vùng nông thôn xuất hiện ngày càng nhiều các nhóm làng nghề, hợp tác xã tín dụng, tín dụng và tiết kiệm… do dân lập và tự quản gồm hàng chục nghìn quỹ; trong đó, có khoảng 100.000 hợp tác xã tín dụng với hơn 11,6 triệu người vay từ tất cả các món tín dụng (6)và hàng triệu tổ chức nông nghiệp, làng nghề… Các nhóm hỗ trợ lẫn nhau giữa hàng xóm láng giềng, giúp khắc phục khó khăn; duy trì, truyền bá, lưu giữ truyền thống làng (xã); tổ chức các hoạt động thể thao, lễ hội làm phong phú đời sống tinh thần; các hội bảo tồn, bảo tang, bảo vệ môi trường… hoạt động sôi nổi đã làm cho đời sống nông thôn khởi sắc theo hướng xây dựng một nông thôn mới hiện đại.

Trong tổng số 86 triệu dân, có khoảng hơn 60 triệu người tham gia từ một đến nhiều tổ chức xã hội và thường dành nhiều thời gian vào việc thực hiện các hoạt động mang tính cộng đồng của hội. Mỗi người dân Việt Nam có thể tự nguyện là thành viên của nhiều tổ chức xã hội với sư đa dạng về thành phần tham gia và trình độ tổ chức. Qua các số liệu thống kê, quy mô của XHDS ở Việt Nam khá rộng lớn với 74% số công dân là thành viên của tối thiểu một tổ chức, 62% là thành viên của từ 2 tổ chức XHDS trở nên và tính bình quân mỗi công dân tham gia 2,3 tổ chức (7); cao hơn nhiều nước châu Á như: Trung Quốc (0,39) và Singapore (0,86). Trong đó, nhóm hội viên lớn nhất thuộc về các tổ chức quần chúng, đoàn thể phụ nữ, tổ chức phúc lợi xã hội, các tổ chức cộng đồng địa phương, các tổ chức thể thao và vui chơi giải trí, các tổ chức giáo dục, nghệ thuật và các hiệp hội nghề nghiệp.

Về cơ bản, các tổ chức chính trị - xã hội đã cố gắng xây dựng tổ chức thật sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nội dung và phương thức hoạt động ngày càng tương thích với cung cách làm ăn và sinh sống hết sức đa dạng và phức tạp của đông đảo các tầng lớp và những cộng đồng, sức hấp dẫn trong các phong trào của các tổ chức chính trị - xã hội ngày càng được nâng cao. Các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp cơ sở là lực lưrợng chính yếu thúc đẩy và tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, từ thực hiện cơ chế “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra và dân hưởng” đến việc bầu ra ra cơ quan quyền lực nhà nước và thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội ở cơ sở. Các hoạt động này đã đáp ứng được phần lớn những yêu cầu sinh hoạt chính trị của nhân dân trong thực hành nền dân chủ XHCN trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra mối liên hệ mật thiết hơn giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Phát huy vai trò nòng cốt trong quá trình hình thành và phát triển chỉnh thể hệ thống các tổ chức XHDS, các tổ chức chính trị - xã hội đã chủ đọng kết nối tự nhiên với các tổ chức xã hội, hình thành một hệ thống thiêt chế các tổ chức XHDS. Xác lập các mối quan hệ chia sẻ thông tin, phối hợp các nguồn lực và hợp tác hành động với những phương thức đa dạng và phong phú trên nhiều lĩnh vực vì mục đích chung của các cộng đồng và đất nước. Trong quá trình đó, các loại tổ chức xã hội đã từng bước được dẫn dắt theo sự lãnh đạo của Đảng.

Các tổ chức XHDS đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự quản và tuân thủ pháp luật, hướng đến việc thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt và lợi ích của cộng đồng, phù hợp với lợi ích xã hội; tham gia giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, đảm nhiệm cung ứng một số dịch vụ công phục vụ xã hội công ích và tự phục vụ dịch vụ cộng đồng, góp phần thực hiện chủ trương xã hội hóa của Đảng và Nhà nước; góp phần thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng, kể cả đối ngoại của Nhà nước.

Các tổ chức XHDS đã coi trọng giáo dục và tập hợp quần chúng phát huy quyền làm chủ của từng cộng đồng, tác động mạnh mẽ đến nhà nước trong thực hiện các quyền công dân, quyền con người và các chính sách xã hội, đến công cuộc cải cách nền hành chính và hệ thông thủ tục hành chính. Tham gia vào quá trình hoạch định và thực hiện chính sách phát triển đất nước, thực hiện phản biện và giám sát xã hội việc thực hiện chính sách, pháp luật của cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức và hoạt động của các chủ thể thị trường. Tổ chức những hoạt động đóng góp thiết thực vào các công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ và công chức, qua đó góp phần rất lớn vào việc ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn quan liêu, tham nhũng…

Các tổ chức XHDS góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN từ mục tiêu, chủ thể kinh tế đến cơ chế quản lý và hoạt động của các loại thị trường; làm cho các chủ thể của nền kinh tế thị trường ngày càng quan tâm hơn đến lợi ích của các cộng đồng, chăm lo cho người lao động trên nhiều mặt, thực hiện chính sách và nghĩa vụ xã hội, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ và phục vụ phù hợp với sự đa dạng của các loại đối tượng tiêu dùng, tham gia tích cực vào việc xử lý các sự cố kinh tế - xã hội.

Các tổ chức XHDS đã tạo ra nhiều phong trào thi đua lao động sản xuất – kinh doanh giỏi, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập khu vực và quốc tế… Điều này đã góp phần khai thác, phát huy tiềm lực của các tầng lớp nhân dân và từng cộng đồng nhân dân, các thành phần kinh tế và các đơn vị sản xuất – kinh doanh, phát triển lực lượng sản xuất và tăng năng suất lao động xã hội, đặc biệt là phát triển mạnh mẽ việc ứng dụng và chuyển giao khoa học – công nghệ, xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất mới, xây dựng cơ sở hạ tầng và hệ thống dịch vụ xã hội.

Các tổ chức XHDS có xu hướng vươn lên tự mình đảm đương dần những lĩnh vực kinh tế và xã hội mà Nhà nước quản lý không hiệu quả bằng như đảm nhiệm một số dịch vụ công ích và tự đảm nhiệm rất nhiều dịch vụ phục vụ cho từng cộng đồng nhân dân. Các hoạt động này trở thành một thành tố không thể thiếu để phát triển nền kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền của một xã hội phát triển. Các tổ chức XHDS cũng đã quan tâm nhiều hơn đến việc tổ chức thực hiện những chính sách xã hội của Nhà nước; tự các tổ chức dân sự đã có rất nhiều hoạt động trợ giúp xã hội đem lại hiệu quả rất lớn, giảm gánh nặng cho Nhà nước và ngân sách quốc gia. Các tổ chức XHDS hoạt động đặc biệt có hiệu quả trong đấu tranh cho sự bình đẳng giới, trong thực hiện công bằng giữa các cộng đồng nhân dân, phát triển đồng đều giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền, bảo vệ và phát triển các loại môi trường.

Trong quá trình phối hợp với nhà nước và thị trường để giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội, hoạt động của các tổ chức XHDS luôn gắn với giải quyết những vấn đề của từng cộng đồng cụ thể, nhất là khắc phục hậu quả chiến tranh và thực hiện phong trào ”uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, thực thi chính sách về phúc lợi xã hội. Các hoạt động này đã phát triển rộng rãi thành phong trào trong cả nước, đem lại hiệu quả cao trong chăm lo phát triển cộng đồng.

Các tổ chức XHDS luôn trú trọng việc nâng cao mức sống cho những người yếu thế với việc thành lập các quỹ hỗ trợ: Quỹ hỗ trợ việc làm, Quỹ vì trẻ em nghèo, Quỹ vì phụ nữ nghèo, Quỹ khuyến học, Quỹ tấm lòng vàng, Quỹ tình thương… đến các trung tâm bảo trợ, cứu trợ…, góp phần làm cho mọi tầng lớp trong xã hội đều được hưởng lợi ích từ tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội với hàng chục vạn ngôi nhà tình thương, “ngôi nhà mơ ước” được xây dựng hoặc sửa chữa; hàng triệu người nghèo được khám và chữa bệnh miễn phí, hàng chục vạn học sinh nghèo được đỡ đầu hoặc được cấp học bổng…

Thực hiện rộng rãi phương châm xã hội hóa trong hoạt động văn hóa – xã hội của Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội và các tổ chức xã hội mà trực tiếp là các hiệp hội văn hóa đã huy động được nhiều tiềm lực to lớn về nguồn vốn, trí tuệ và sức lực của các tầng lớp nhân dân cả trong và ngoài nước vào sự nghiệp phát triển nền văn hóa nước nhà. Các tổ chức XHDS đã tạo ra các phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nâng cao trình độ dân trí (như đào tạo và phổ cập tri thức, hoạt động nâng cao năng lực của các thành viên, hội viên trong sinh hoạt hội); xây dựng gia đình văn hóa, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, thực hiện kế hoạch hóa gia đình; xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội; tạo ra một đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân.

Hoạt động của các tổ chức XHDS đã có đóng góp không nhỏ vào việc mở rộng nền ngoại giao nước nhà, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, trong chuyển giao công nghệ và tham gia có hiệu quả vào sự phân công lao động và hợp tác quốc tứ của Việt Nam với khu vực, với các cường quốc và tổ chức kinh tế thế giới; đặc biệt tham gia có hiệu quả trong những hoạt động thiết thực nhằm khôi phục lại tính chỉnh thể của hệ thống các môi trường, bài trừ các tệ nạn, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an toàn giao thông.

Thực tế đó đã cho thấy, ở nơi nào phát huy được vai trò của các tổ chức XHDS thì nơi đó có sự phát triển bền vững cả về kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội; làm cho tính ưu việt của chế độ XHCN càng tỏ rõ và ngược lại./.

(1)Bộ Ngoại giao, “ Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam”,www.mofa.gov.vn/.../ns70206102551

(2) và (3)Dẫn theo Tạp chí Lý luận chính trị,số 4/2007,tr.22.

(4)Theo Bộ Ngoại giao Việt Nam,www.mofa.gov.vn, 7/2007.

(5)Xem: Xuân Toàn, Hiệp hội nhiều, chất lượng chưa cao,Báo Thanh Niên ngày 25/06/2008.

(6)Vietnam News 8/7/2005

(7)Theo WVSV 2001.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.