Cơ giới hóa trong lâm nghiệp: Việc nhẹ thì có, khó thì chưa
Chế tạo máy cho nhà nông: Dễ mà khó
Cơ giới hóa trong NN: Có máy nhưng không dễ áp dụng
Hệ lụy của tình trạng trên là năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế thấp, tiềm năng đất đai không phát huy được, đời sống của người dân sống trong vùng lâm nghiệp còn rất nghèo.
Thiếu và yếu từ A đến Z
Việc đưa máy móc vào sản xuất lâm nghiệp hầu như chưa đáp ứng được nhu cầu. 70% khối lượng công việc được làm bằng thủ công chỉ có 30% khối lượng công việc là được cơ giới hóa. Việc áp dụng cơ giới hóa chỉ mới được thực hiện hai khâu chặt hạ và vận chuyển, còn nhiều khâu sản xuất quan trọng chiếm tỷ lệ khối lượng công việc lớn như trồng, chăm sóc, chữa cháy, vận xuất và bốc xếp thì tỷ lệ áp dụng cơ giới hóa thấp khoảng 2-5%.
Từ đó, dẫn đến năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế trong sản xuất lâm nghiệp rất thấp, ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái.
Trồng, chăm sóc và phát triển rừng là khâu đầu tiên trong chu trình sản xuất lâm nghiệp. Nó có ý nghĩa rất lớn để tạo ra diện tích rừng, tăng độ che phủ và sản lượng rừng, bảo vệ môi trường sinh thái. Khâu này cũng là khâu tốn nhiều công sức lao động nhưng tỷ lệ áp dụng cơ giới hóa chỉ đạt 3% còn 97% khối lượng công việc là làm thủ công. Cuốc hố trồng cây, đóng bầu ương cây giống, trồng cây đều làm bằng tay.
Để chữa cháy rừng hiện nay cũng chủ yếu là dùng cành lá để dập lửa, chỉ một số rất ít các vườn quốc gia, trung tâm chữa cháy rừng được trang bị một số thiết bị nhưng còn hạn chế và không đạt hiệu quả như mong đợi. Tỷ lệ chữa cháy rừng bằng máy chỉ đạt 2%. Đặc biệt, khâu phun thuốc trừ sâu bệnh hại cây lâm nghiệp đến nay hầu như không có thiết bị máy móc nào.
Cần có giải pháp đồng bộ
Có thể nói địa hình đất lâm nghiệp ở Việt Nam khá phức tạp, có độ dốc lớn. Hơn thế nữa, sản xuất lâm nghiệp thường tập trung ở vùng sâu, vùng xa nên khó khăn trong việc áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất, thậm chí nhiều thiết bị không thể hoạt động được ở địa hình dốc trên 15 độ.
Các chính sách đầu tư của nhà nước cho ngành lâm nghiệp có nhưng còn hạn chế nên các đơn vị lâm nghiệp và nông dân gặp khó khăn trong việc mua máy móc thiết bị để áp dụng vào sản xuất. Các nghiên cứu cải tiến để tạo ra các thiết bị phù hợp với địa hình, điều kiện lâm nghiệp Việt nam còn rất ít, chưa được quan tâm đúng mức.
Trong chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn năm 2020, mỗi năm ngành lâm nghiệp trồng mới khoảng nửa triệu ha rừng, tăng độ che phủ rừng lên 43%, khai thác khoảng 10 triệu m3 gỗ để phục vụ cho nhu cầu phát triển đất nước. Với khối lượng công việc lớn như vậy, thì việc áp dụng cơ giới hóa là rất cần thiết. Phấn đấu đưa tỷ lệ cơ giới hóa các khâu này lên 50% vào năm 2020. Trước mắt, nên tập trung ở một số khâu sản xuất quan trọng có khối lượng công việc lớn như làm đất trồng rừng, tạo hố trồng cây, chăm sóc, chữa cháy, vận xuất và bốc xếp gỗ.
Để làm được điều đó, nhà nước cần có giải pháp, chính sách đồng bộ khuyến khích, hỗ trợ các cơ sở sản xuất đầu tư mua sắm trang thiết bị máy móc áp dụng vào sản xuất, đẩy mạnh khuyến công, đào tạo nông dân sử dụng máy và thiết bị.
Khẩn trương cho các đơn vị, tổ chức, nông dân vay vốn ưu đãi để đầu tư mua sắm trang thiết bị máy để sử dụng trong sản xuất. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu cải tiến, tuyển chọn các thiết bị để tạo ra các thiết bị phù hợp với điều kiện địa hình, điều kiện về đất đai và điều kiện kinh tế xã hội để từ đó áp dụng rộng rãi cho các cơ sở sản xuất lâm nghiệp trong cả nước. Đào tạo cán bộ kỹ thuật để tổ chức, quản lý và sử dụng các thiết bị máy móc trong tất cả các khâu sản xuất lâm nghiệp.








