Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 09/05/2007 23:42 (GMT+7)

Chuyện vãn về con lợn trong nền văn hoá Việt Nam

Văn hoá, hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm Quan hệ - Tác động qua lại giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.

Còn hiểu theo nghĩa hẹp nhất thì văn hoá bao gồm 3 lĩnh vực: Tư tưởng – Văn chương - Nghệ thuật.

Họ lợn rừng – tên khoa học là Suidae – là tự nhiên. Con người – giới sinh học – nghiên cứu (tư duy) về nó, thì thấy có tới năm (05) giống lợn, trong đó có giống Sus bao gồm cả lợn rừng và lợn nhà.

Con người thời tiền sử(đá cũ) đã săn bắt/bắn (bằng bẫy, bằng cung tên, bằng lao gỗ/đá) lợn rừng. Ở di chỉ Kéo Lèng (Lạng Sơn) có niên đại 5 – 10 vạn năm cách ngày nay, giới khảo cổ Việt Nam đã tìm thấy, “cái thủ (sọ) lợn” bị đập vỡ … Hẳn là để ăn!

Chế biến thức ănđã là một nghệ thuật – văn hoá, bằng nướng, bằng luộc… Ở Đông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng, giới sinh học đã nghiên cứu thấy có 02 loại lợn rừng: lợn bạc má(SUS Vittatus) và lợn sọch dưa(Sus Cristatus).

Răng nanh lợn lòi, lợn cỏ, lợn rừng được con người - từ ngàn xưa cho đến mãi hôm nay, ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Việt Bắc… dùng chế biến làm đồ trang sức(mài, cưa, đục, xuyên lỗ xâu giây… đeo trên cổ (vòng cổ)), cũng còn dùng như một thứ bùa (tín ngưỡng dân gian) hay thuốc chữa bệnh. Đồ trang sức, tín ngưỡng dân gian, y học dược cổ truyền đều được UNESCO xếp vào phạm trù văn hoá.

Nghệ thuật tiền sử (# 4 vạn năm cách ngày nay) - thể hiện trên vách nhiều hang động thời tiền sử - đã thấy hình ảnh lợn rừng được tả thực trong tình huống hung dữ của nó (thực ra bản tính của loài lợn nói chung là hiền lành – nhút nhát nữa cơ – nhưng khi cần đối phó với kẻ thù tấn công nó – như chó sói, hổ… và con người (người săn thú) thì những con lợn độc hay lợn đầu đàn thường chống cự rất mãnh liệt). Người tiền sử thường dùng công cụ đá cứng - nhọn (đục) chạm khắc đường viền con lợn lòi trên vách hang đá vôi (mềm) rồi thổ hoàng (ocre - một loại đá son, mài hoà với nước hay mỡ động/thực vật) vào phần hình thể con vật. Thế là đủ cả đường nét, hình khối… của nghệ thuật tạo hình nguyên thuỷ mà sau này nghệ thuật tạo hình dân gian kế thừa và phát huy…

Đến thời đá mới - thời đại nảy sinh và bước đầu phát triển nông nghiệp – (# 10.000 - 6.000 năm cách ngày nay) thì loài người đã thuần phục (bắt lợn rừng - lợn cỏ, con bị thương nhẹ của mũi tên bắn, con lợn rừng con… nhốt vào một hàng rào khép kín) rồi thuần dưỡng được loài lợn, biến loài lợn rừng thành lợn nhà (nuôi trong chuồng hay thả rông): Biến đổi thiên nhiên (lợn rừng) thành sản phẩm văn hoá (lợn nhà), rồi từ lợn nhà – qua nghệ thuật nấu ăn lại làm thành các món: nướng chả (bún chả Hàng Mành, Hà Nội ngon nổi tiếng), giã giò (Giò là một đặc sản độc đáo của Việt Nam đã được đại văn hào Nguyễn Tuân viết tỉ mỉ), hay ăn luộc (“con lợn ủn ỉn mua hànhcho tôi” của ca dao cổ), ăn tái (thịt nạc thái mỏng vắt chanh – ngâm dấm (kiểu Tày – Thái) hay nhúng dấm lẩu (kiểu Sài Gòn – Ba Tầu).v.v… Thịt lợn chế biến còn làm “nhân” cho các loại bánh giò, bánh cuốn, bánh đa, bánh chưng (rất đặc trưng của Tết Việt Nam)… rồi nào là bún nem, bún bò giò heo (đặc trưng văn hoá xứ Huế) chả giò (đặc trưng Sài Gòn Nam Bộ Việt Nam)… con người – văn hoá biến hoá đủ đường… và chắc đâu ta đã ở cuối đường văn hoá thịt lợn – xương lợn (gọi chung là Văn hoá lợn): món thắng cố của đồng bào H’Mông, thịt kho Tầu, thịt nấu đông, tiết canh lòng lợn Bắc – Trung – Nam. Và ngày Tết, ít có thể thiếu được món nấu bóng bì (chế biến từ da lợn)…

Lợn đi vào Lễ nghi – Phong tục(cũng là văn hoá): Có làng – xã nuôi lợn thờ, ngày lễ hội tế thành hoàng làng mới đem “Ông Ỷ” ra tế sinh. Phổ biến hơn là “mâm xôi – con lợn (luộc, quay)” trong tế đám – đám giỗ, đám ma… và đám cưới. Có một tục lệ này ở người Việt ngày xưa: Nếu sau khi biết rõ cô dâu đã “mất trinh” trước/sau khi “động phòng hoa chúc” thì cái thủ lợn (luộc/quay) bị xẻo tai đem trả nhà dâu/ thân gia – “ngượng đến chết đi được” trước tai mắt hàng xóm láng giềng (nay tục này đã đổi).

Dân gian thường nói: “ngu như lợn”, có đúng không? Hẳn chỉ vì lợn nhà “hiền quá hoá ngu” chăng”.

Dân gian lại nói: “Bẩn như lợn”, hẳn là vì tập tính của loài lợn (cả lợn rừng và nhà) là chúng thích đầm mình trong bùn, kể cả trong nước giải và phân bùn nhão do chính chúng “ị” ra! Nhưng ở miền núi nước ta, có nơi lợn (tương đối sạch – khô) ngủ bên cạnh người cho thêm ấm (tôi đã thấy tận mắt khi đi công tác điền dã) và ở một số nước phương Tây (tôi cũng thấy “tận mắt”), người ta nuôi “lợn cảnh” y như “chó cảnh”. Và ở Đức chẳng hạn, ngày lễ giáng sinh những hình con vật chạm khắc trên gỗ, trong đó con lợn, được coi đó là Biểu tượng của Hạnh phúc (như con dơi là biểu tượng hạnh phúc của nghệ thuật tạo hình Hán - Việt).

Trong khi đó, tục kiêng ăn thịt lợn là một phong tục độc đáo của người theo Hồi giáo – khoa học gọi là taboo. Thật khó mà giải thích cho ổn đáng những tục lệ này, duy lý không đủ, mà còn duy tình, duy “ngai” (nghĩa) nữa cơ!

Chuyện vãn mãi con Lợn ngày Tết… rồi cũng có lúc phải kết thúc… để đi làm ăn!

Có hai biểu hiện độc đáo của nghệ thuật tạo hình dân tộc – dân gian Việt Nam với hình con lợn:

- Về điêu khắc: Con lợn đất nung bôi mầu (mình) đỏ - tai (xanh), với các cỡ to nhỏ khác nhau, rộng lòng, có khía một rãnh nhỏ… để giành cho con trẻ ngày xưa bỏ xu – chinh “tiết kiệm”. Khi “Lợn đất” đầy ắp xu, hào, bèn làm một “nghi thức” “mổ lợn”, đếm tiền tiết kiệm để… tiêu, vui đáo để là vui!

- Về hội hoạ: Tranh tết dân gian:

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

(Trích thơ Hoàng Cầm)

Có ít nhất ba loại tranh Lợn làng Hồ, quê quán nhà thơ lãng mạn - hiền khô này:

- Lợn đàn (biểu tượng tín ngưỡng dân gian “sinh sôi này nở”).

- Lợn độc (“nhất khoảnh anh hùng”)

- Lợn ăn lá dáy (tự nhiên – hoà hợp)

Có điều nhận xét cuối cùng này: Tranh Lợn làng Hồ đều “tả thực” con lợn Ỷ (“mặt như lợn ỷ - tức mặt to bè - lắm mỡ/nạc). Giới sinh thái học dân gian nghiên cứu và cho biết: Giống Lợn Ỷ chỉ có ở hạ lưu vực sông Hồng do kết quả chọn lọc giống và chăn nuôi lâu đời ở đây. Hiện tại một số vườn thú thế giới nuôi lợn ỷ như một con thú lạ!

Xem Thêm

Nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh
Chính phủ yêu cầu thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2050. Đồng thời nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh, đô thị, nông thôn xanh; thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững...

Tin mới

Đoàn đại biểu VUSTA viếng đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Chiều ngày 24/5/2025, đoàn đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam do TSKH. Phan Xuân Dũng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam làm trưởng đoàn đã tới kính viếng đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Thanh Hoá: Tập huấn Bình dân học vụ số cho cán bộ, hội viên
Ngày 22/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa tổ chức Hội nghị tập huấn về Công nghệ số ứng dụng trong sản xuất và đời sống (Bình dân học vụ số) cho gần 200 cán bộ, hội viên của các hội thành viên, trung tâm trực thuộc, đơn vị liên kết trong hệ thống Liên hiệp hội.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Tiền Giang: Họp mặt và vinh danh trí thức KH&CN
Ngày 20/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Tiền Giang phối hợp Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức họp mặt trí thức KH&CN và vinh danh 2 trí thức được phong hàm Phó Giáo sư, 8 trí thức được công nhận học vị Tiến sĩ.
ĐẨY MẠNH HỢP TÁC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN TRONG HỆ THỐNG LIÊN HIỆP HỘI VIỆT NAM
Sáng ngày 13/5/2025 tại tỉnh Sóc Trăng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Sóc Trăng tổ chức Hội thảo “Xúc tiến hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm hoạt động đối ngoại nhân dân trong hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam”.
VUSTA đóng góp cho Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 2013 và Dự thảo Luật KHCN & ĐMST
Dù chỉ sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 2013, đội ngũ trí thức Liên hiệp Hội Việt Nam nhấn mạnh tính cấp thiết và chiều sâu cải cách, từ mô hình chính quyền hai cấp đến quy định cụ thể cấp hành chính, làm rõ vị trí tổ chức chính trị - xã hội...