Chuyển giao công nghệ tại Việt Nam: mới mẻ & hạn chế
Thực trạng chuyển giao công nghệ
Hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Namhiện nay bao gồm các hình thức chủ yếu là chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam, chuyển giao công nghệ trong nước và chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài. Mặt khác, một số đánh giá khác thì phân chia việc chuyển giao công nghệ chủ yếu theo hai luồng chính là: từ công ty mẹ chuyển giao cho các công ty con trong các công ty 100% vốn nước ngoài, hoặc trong các công ty liên doanh. Luồng thứ hai là các hoạt động chuyển giao công nghệ thương mại thuần túy. Thực tế diễn ra tại Việt Nam phần nhiều là các hoạt động chuyển giao công nghệ theo hình thức thứ nhất. Một số nghiên cứu trong nước cho kết quả: 90% hợp đồng chuyển giao công nghệ được ký kết với các doanh nghiệp (DN) có vốn đầu tư nước ngoài.
![]() |
Doanh nghiệp có công nghệ lạc hậu tại TP.HCM chiếm tới 20% |
Công tác hội nhập quốc tế về KH-CN cũng chưa được quan tâm đẩy mạnh để tìm kiếm, tiếp thu, làm chủ, tiến tới cải tiến công nghệ nhập từ nước ngoài phục vụ đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong xu thế hội nhập. Ngoài ra, sự gắn kết giữa đào tạo - nghiên cứu - sản xuất, kinh doanh, quan hệ hợp tác giữa các tổ chức KH-CN, chất lượng các đề tài nghiên cứu khoa học đã nghiệm thu và việc đưa kết quả nghiên cứu vào cuộc sống vẫn còn nhiều hạn chế.
Doanh nghiệp thờ ơ với việc nâng cao trình độ công nghệ
Các doanh nghiệp nhà nước lớn cũng ít quan tâm đến đổi mới công nghệ vì thường có vị thế độc quyền, không chịu sức ép cạnh tranh và có tâm lý dựa dẫm vào sự bảo hộ của Nhà nước. Ngay cả các DN ngành công nghiệp, được coi là chủ lực cũng tương tự. Theo Bộ Công nghiệp, phần lớn giá trị máy móc thiết bị sản xuất chỉ còn 30% so với giá trị ban đầu và đã lạc hậu hơn 30 năm, như dệt may có đến 45% cần phải đầu tư nâng cấp và 30 - 40% cần thay thế; mũi nhọn công nghiệp là cơ khí thì đã lạc hậu hơn 40 năm so với khu vực và 50 năm so với các nước phát triển về công nghệ. Đầu tàu kinh tế của cả nước là TP.HCM cũng chỉ có 25% DN có công nghệ sản xuất tiên tiến, 32% ở mức trung bình, còn lại là dưới trung bình và lạc hậu, trong đó DN có công nghệ lạc hậu chiếm 20%.
Bên cạnh đó, cơ chế bảo hộ cho các đối tượng sở hữu công nghệ còn yếu, chưa có chiến lược chuyển giao công nghệ hữu hiệu.
Một số giải pháp và kiến nghị
Từ việc đánh giá như trên, một số kiến nghị và giải pháp có thể được đề xuất để hoạt động chuyển giao công nghệ có thể đạt hiệu quả cao hơn trong thời gian tới bao gồm: cần tiến hành tổng kết, đánh giá đầy đủ hơn về hoạt động chuyển giao công nghệ trong thời gian qua để rút ra những bài học thành công và chưa thành công, từ đó nâng cao hơn nữa những nhận thức về lợi ích và chi phí của hoạt động chuyển giao công nghệ trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Nâng cao nhận thức về việc tiếp nhận công nghệ chuyển giao thông qua các dự án đầu tư nước ngoài. Từng bước xây dựng đội ngũ các chuyên gia, các nhà khoa học có đủ khả năng phát triển các loại công nghệ được chuyển giao phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam .
Cần quy hoạch và chủ động xây dựng các khu công nghệ tập trung, công nghệ cao để tạo địa bàn cho việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ một cách thuận lợi, đặc biệt là các loại công nghệ cao và đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Phát triển mạnh các hoạt động liên doanh, liên kết để bổ sung những phần kiến thức về công nghệ trong lĩnh vực mà Việt Nam còn thiếu. Đồng thời cần chú trọng nhiều hơn đến việc khai thác các thế mạnh về thị trường tiêu thụ, kiến thức quản lý các loại dây chuyền công nghệ, tiếp nhận các loại tài liệu cũng như quá trình đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình khai thác và sử dụng công nghệ của đối tác nước ngoài để phát huy thế mạnh của Việt Nam. Quá trình này cần gắn với hoạt động nội địa hóa công nghệ một cách toàn diện. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để chuyển đổi các cơ sở nghiên cứu hiện thời sang hình thức doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu và xây dựng thí điểm các loại hình nghiên cứu như ở các trường đại học nổi tiếng trên thế giới.
Nguồn: Khoa học phổ thông 24/11/2006









