Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 19/11/2010 19:13 (GMT+7)

Chương trình đào tạo giáo viên có hiệu quả ở một số nước trên thế giới

Giáo viên (GV), từ vai trò là người cung cấp thông tin, trở thành người nhạc trưởng, người tổ chức, hướng dẫn quá trình học của học sinh.

Để đào tạo ra những giáo viên tương lai đáp ứng các yêu cầu của một nền giáo dục mới, đòi hỏi các trường sư phạm phải có sự thay đổi mang tính cách mạng, toàn diện. Trong những năm qua, các trường sư phạm cũng đã và đang có những thay đổi, cải tiến tích cực. Tuy nhiên những thay đổi đó là nhỏ lẻ trong khuôn khổ đào tạo mang tính truyền thống. Thực tiễn đào tạo giáo viên ở trường sư phạm hiện nay còn nhiều bất cập, khiếm khuyết, làm cho chất lượng đào tạo giáo viên chưa cao. Chính vì vậy, Chỉ thị 40-CT/TƯ của BCH Trung ương Đảng CSVN ngày 15/6/2004 về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục và xác định “Đổi mới chương trình, giáo trình, phương pháp dạy và học trong các trường, khoa sư phạm và các trường cán bộ quản lí giáo dục nhằm đáp ứng kịp thời những yêu cầu đổi mới của giáo dục phổ thông và công tác quản lý Nhà nước về giáo dục”.

Để giúp cho việc đổi mới đào tạo GV nói chung và chương trình đào tạo nói riêng, chúng tôi xin giới thiệu tổng quan một số chương trình đào tạo giáo viên có hiệu quả ở một số nước nhằm rút ra một bài học bổ ích cho Việt Nam.

1. Dự án giáo viên cho thế kỉ mới (Teacher for the new era – TNE)

Dự án này là sáng kiến của Tổ chức Carnegic 2002 (Mỹ) với 4 cơ sở đào tạo giáo viên (ĐTGV) tham gia. Mục tiêu chính của dự án và thiết lập những thay đổi cần thiết để thúc đẩy việc đào tạo những GV biết quan tâm, có năng lực và giảng dạy có hiệu quả. TNE đưa ra 3 nguyên tắc thiết kế chung mà các chương trình đào tạo GV có chất lượng đều có, đó là:

- Các chương trình đào tạo GV cần phải dựa trên minh chứng. Văn hóa nghiên cứu, tìm tòi, khám phá và phân tích số liệu cần phải thể hiện trong toàn bộ chương trình. Nhu cầu chú ý cần tập trung vào kết quả học tập của HS do sinh viên (SV) thực tập giảng dạy.

- Các môn học xã hội và khoa học cần được đưa đầy đủ vào trong chương trình đào tạo GV tương lai để đảm bảo là SV tốt nghiệp có phổ giáo dục chung, rộng và được chuẩn bị tốt để giảng dạy môn của mình. Các giảng viên ở các khoa xã hội và khoa học cũng cần tham gia hướng dẫn sinh viên, đặc biệt là ở cơ sở thực tập.

- GD cần được hiểu như là nghề giảng dạy thực tế tại thực địa (đào tạo nội trú) bao gồm sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo GV với trường phổ thông, trong đó các GV giỏi ở trường phổ thông được coi như là những người hướng dẫn của trường đại học tại cơ sở trường học sinh cho sinh viên và hỗ trợ các em.

Kết quả đầu ra của sinh viên tốt nghiệp của các chương trình sử dụng TNE để đào tạo GV dự kiến là:

- Có kiến thức vững chắc về môn học;

- Có kĩ năng và kiến thức sư phạm cần thiết cho giảng dạy;

- Hình ảnh một mô hình phát triển chuyên môn bắt đầu bằng giai đoạn thực tập chung (rộng) trong mối quan hệ đối tác chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo GV và nhà trường và tiếp tục trong suốt hai năm đầu giảng dạy.

2. Chương trình đào tạo GV của Đại học Melbourne – Australia

Khoa Giáo dục – Đại học Melbourne đã đưa ra chương trình đào tạo Thạc sĩ giảng dạy mới (master of teaching) (mầm non, tiểu học và trung học) vào năm 2008. Đó là sự áp dụng sáng kiến TNE.

Mục tiêu cơ bản của chương trình đào tạo Thạc sĩ giảng dạy là nâng cao sự gắn kết chặt chẽ trong đào tạo GV và nhằm tạo ra những SV tốt nghiệp có khả năng sử dụng các số liệu nghiên cứu phục vụ cho giảng dạy của mình. Có hai hướng cải cách trong chương trình đào tạo GV: thứ nhất là giới thiệu mô hình giảng dạy tại thực địa có sử dụng hệ thống mạng lưới các trường thực hành để tiến hành thực tập sư phạm và thứ hai là xem xét lại chương trình giảng dạy ở đại học Melbourne trong đó lí thuyết được dạy trong ngữ cảnh thực tiễn và thực tập được gắn kết với lí thuyết.

Ở mức độ rộng nhất, mục tiêu của Chương trình đào tạo Thạc sĩ giảng dạy là đào tạo GV và các nhà lãnh đạo tương lai – những người sẽ mang đến cho GD những cam kết tạo ra sự khác biệt trong học tập và cuộc sống của từng HS, những người có thể quản lí môi trường học tập có hiệu quả và tối ưu hóa các cơ hội học tập cho tất cả người học. Sinh viên tốt nghiệp chương trình đào tạo Thạc sĩ là những người có khả năng thể hiện:

- Cam kết giảng dạy lấy HS làm trung tâm;

- Các kĩ năng trong việc phát triển mối quan hệ tương hỗ và tương tác tích cực với HS;

- Có kiến thức rộng về việc HS học như thế nào và giảng dạy như thế nào cho có hiệu quả;

- Nắm rõ nội dung, các quá trình và các kĩ năng mà mình sẽ giảng dạy;

- Có năng lực làm việc với những tài liệu hướng dẫn chương trình để lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, đánh giá chương trình và đánh giá quá trình học tập của HS.

- Có khả năng sử dụng đa dạng các phương pháp, các nguồn lực và công nghệ để lôi cuốn HS và học tập có hiệu quả;

- Cam kết về sự công bằng và chất lượng cho tất cả HS;

- Có năng lực xây dựng mối quan hệ tích cực với đồng nghiệp, cha mẹ và cộng đồng.

- Có năng lực tự đánh giá và nâng cao kiến thức và thực tiễn chuyên môn (1).

- Góp phần tích cực vào GD thông qua sự tham gia vào nhiều loại hình học tập chuyên môn.

Ngoài ra, chương trình đào tạo Thạc sĩ giảng dạy mong đợi giáo sinh tốt nghiệp có được những phẩm chất như:

- Khả năng suy nghĩ độc lập và tự điều chỉnh;

- Thực hiện trách nhiệm cải thiện chất lượng học tập của HS.

- Sự linh hoạt và năng lực thích nghi với sự thay đổi thông qua việc biết tự học;

- Có trách nhiệm với những mong đợi của nhà trường, cộng đồng và ngành;

- Năng lực và mong muốn đối xử một cách tôn trọng và giúp đỡ HS và đồng nghiệp;

- Đánh giá cao sự công bằng, sự tham gia và dân chủ trong học tập và giảng dạy.

Chương trình đào tạo GV dựa vào trường học đã tạo ra sự thay đổi cơ bản trong việc đào tạo nghề nghiệp cho GV. Khóa đào tạo Thạc sĩ được xây dựng dựa trên những kiến thức bộ môn (tích hợp) và kĩ năng phân tích có phê phán của những ứng viên dự thi. Dựa trên những cơ sở lí luận và nghiên cứu, các khóa học cung cấp cho học viên những kiến thức về quá trình học tập và phát triển, giáo dục học (sư phạm), chương trình và đánh giá phù hợp với GD thế kỉ 21. Khóa học được lồng ghép với việc tiếp tục công việc thực tế tại nhà trường và các chương trình seminar thực tập.

Ví dụ: chương trình đào tạo Thạc sĩ giảng dạy Tiểu học bao gồm 4 học kì:

- Học kì I: Thực tập chuyên môn và seminar tiểu học 1; Người học, người dạy và Sư phạm; công nghệ thông tin trong GD tiểu học; Anh ngữ cơ bản; Giảng dạy Toán 1;

- Học kì II: Thực tập chuyên môn và seminar tiểu học 2; Đánh giá quá trình dạy và học; Giảng dạy toán 2; GD nghệ thuật; GD nhân văn;

- Học kì III: Thực tập chuyên môn và seminar tiểu học 3; Các ngữ cảnh xã hội và chuyên môn; Giáo dục khoa học và công nghệ; Anh ngữ nâng cao; GD thể chất;

- Học kì IV: Tự chọn (2); thiết kế giảng dạy cá nhân; Toán, Đánh giá và quá trình học; Ngữ văn, Đánh giá và quá trình học.

Khóa học lí thuyết (hàn lâm) được dạy 3 ngày trong 1 tuần. Học viên phải có 2 ngày/ 1 tuần ở trường học trong 10 tuần liên tục, sau đó là 3 tuần liên tục ở trường học.

Sự nhấn mạnh đến vai trò của thực tập ở nhà trường trong chương trình đào tạo Thạc sĩ giảng dạy được hỗ trợ thông qua sự phát triển các mạng lưới trường học. Các hiệu trưởng và đội ngũ GV của những trường học đó có cơ hội làm việc trong mối quan hệ đối tác với trường đại học Melbourne và với nhau, để tạo ra một thế hệ GV mới. Từng trường học đồng ý hỗ trợ giáo sinh thực tập và có một trường được lựa chọn như là trường đứng đầu của mạng lưới.

Tuy chương trình mới đưa vào áp dụng nhưng đã được đánh giá là chương trình có chất lượng cao trong việc đào tạo GV. Kết quả bước đầu cho thấy các ứng viên làm việc ở mức độ cao hơn so với các ứng viên ở các chương trình đào tạo GV khác. Ví dụ, GV và hiệu trưởng các trường khi xếp loại các ứng viên so vứi các chương trình đào tạo khác đều xếp vượt trội 13 trong tổng số 14 chỉ tiêu, bao gồm năng lực lập kế hoạch, thực hiện và duy trì các môi trường học tập thách thức, giám sát nhu cầu học tập của HS, đáp ứng và điều phối những khó khăn trong lớp học, tham gia với các GV khác trong các cuộc thảo luận chuyên môn về dạy và học. Ngoài ra, các ứng viên cũng cho biết họ cảm thấy tự tin về khả năng giảng dạy của mình.

3. Chương trình đào tạo GV của Stanford (STEP) – Mỹ

Chương trình STEP được coi là chương trình tốt nhất ở Mỹ bởi vì nó cung cấp một chương trình gắn kết với thực tập sư phạm chung dựa vào nhà trường.

Chương trình đào tạo GV của Stanford dành cho GV Tiểu học là 12 tháng học tập trung để có bằng Thạc sĩ GD do trường Đại học Stanford ở California cấp. Chương trình đào tạo sinh viên tốt nghiệp dạy tất cả các lĩnh vực chính của chương trình ở mọi lớp học (tiểu học) và đáp ứng các yêu cầu giảng dạy các môn học ở tích hợp ở trang California.

Mục tiêu chính của STEP là đào tạo ra những SV có khả năng đáp ứng những thách thức thực tiễn và trí tuệ của nghề dạy học và những người có khả năng phục vụ nhu cầu đa dạng của người học ở nhà trường. Mục tiêu cụ thể của chương trình là đào tạo ra những SVTN có khả năng thể hiện:

- Tập hợp các giá trị giảng dạy bao gồm cam kết vì sự công bằng xã hội;

- Hiểu rõ những mặt mạnh và nhu cầu đa dạng của HS;

- Cam kết vì sự bình đẳng và chất lượng cho mọi HS;

- Năng lực tập trung vào các nhu cầu cá nhân và sự phát triển của người học;

- Khả năng tiến hành những giảng dạy và học tập nhạy cảm với gia đình và cộng đồng;

- Nắm rõ bối cảnh chính trị của GD;

- Các kĩ năng giảng dạy phù hợp với bộ môn và thúc đẩy sự tìm kiếm, suy nghĩ có phê phán và giải quyết vấn đề.

Ngoài ra, STEP còn hướng đến việc đào tạo và hỗ trợ các nhà lãnh đạo GD – những người sẽ làm việc với sự đa dạng về người học để đạt được các chuẩn trí tuệ, khoa học và chuẩn XH cao bằng cách tạo ra những nhà trường và lớp học công bằng và thành công. Các phẩm chất và chất lượng nghề nghiệp trang bị cho học viên tốt nghiệp bao gồm:

- Hiểu GD như là một công việc trí óc và một nghề đòi hỏi sự quan tâm, chăm sóc;

- Nắm chắc nội dung giảng dạy và có vốn thực tiễn sư phạm phong phú;

- Quan điểm về giảng dạy và vai trò của GD trong XH được qui định bởi các bối cảnh XH – VH của GD;

- Năng lực nuôi dưỡng sự hiểu biết và cam kết tạo ra sự nghiên cứu, phản hồi và tìm kiếm trong lớp học;

- Khả năng hợp tác với mọi cá nhân, các tổ chức và cộng đồng;

- Khả năng gắn kết lí thuyết với thực tiễn;

- Và sử dụng có hiệu quả công nghệ như là phương tiện dạy và học;

Chương trình cụ thể bao gồm các môn học:

- Chương trình và giảng dạy;

- Cơ sở tâm lí – xã hội;

- Ngôn ngữ và việc biết đọc, viết;

- Các chiến lược sư phạm;

- Thực tập giảng dạy.

Yếu tố đặc trưng nhất của chương trình đào tạo GV tiểu học STEP là thời lượng thực tập tại trường. Các ứng viên phải sử dụng trung bình 16 giờ trong một tuần ở trường học (4 giờ trong một ngày và tổng cộng một tuần là 4 ngày). Thực tập của các ứng viên ở trường học được hướng dẫn bởi một GV giỏi của trường đó và một giảng viên đại học. Trong chương trình có seminar hàng tuần để trao đổi tập trung vào những vấn đề liên quan đến trường học. Trong toàn bộ khóa học một năm, các ứng viên sẽ phải thực tập ở 3 trường khác nhau trong địa bàn lựa chọn và các trường tiểu học công lập.

Những nhận định chung

Như vậy, xu hướng trong đào tạo GV hiện nay chuyển từ quan điểm “truyền thống” sang quan điểm mới hướng vào người học để giảng dạy tốt hơn. Các mô hình truyền thống trong đào tạo GV dựa trên cách hiểu hạn hẹp và không đầy đủ về mối liên hệ giữa học và dạy. Mục tiêu của các khóa đào tạo đó là đào tạo ra những GV để truyền thụ những nội dung kiến thức cho HS theo trình tự các bước và mức độ khó dần. Chính vì thế, nó tập trung vào việc trang bị kiến thức và sự hiểu biết; nhấn mạnh nội dung môn học và phương pháp giảng dạy bộ môn, dạy cách suy nghĩ, cách tìm tòi và cấu trúc môn học. Tóm lại, chương trình đào tạo định hướng đến nội dung môn học hơn là các kĩ năng sư phạm. Các yêu cầu học tập dối với sinh viên sư phạm trong những chương trình đào tạo này là tập trung vào quá trình soạn giáo án và các cách thức, phương pháp cần thiết để quản lí và vận hành các hoạt động trong lớp học.

Chương trình cải cách trong đào tạo GV mở rộng nội dung đào tạo bao gồm các kiến thức về phát triển, các lí thuyết học tập và sự nhận thức sâu sắc các yếu tố tác động đến việc thúc đẩy sự tham gia của HS vào quá trình học. Trong các chương trình này, nội dung học tập dành cho SV sư phạm tập trung nhiều vào việc sử dụng các thông tin về HS để tạo ra môi trường học tập có hiệu quả cho tất cả HS trong lớp học. Và như vậy, trọng tâm trong đào tạo GV hướng đến việc làm rõ những đặc trưng của người học, đến việc giám sát quá trình học và sử dụng các minh chứng để can thiệp có hiệu quả vào quá trình học của HS. Hay nói cách khác, các nội dung NVSP phải được đặc biệt chú trọng trong các chương trình đào tạo GV.

Bên cạnh đó, các chương trình đào tạo GV mới hiện nay phải xác định dạy học là một nghề định hướng thực hành và vì thế đào tạo GV phải được diễn ra chủ yếu tại thực địa là các nhà trường phổ thông nhằm củng cố cả lí thuyết và thực hành trong giảng dạy có hiệu quả.

Tài liệu tham khảo

1/ Tony Towsend & Richard Bates (ed), Handbook of teacher education,Netherlands, 2007.

2/ Aubrey H. Wang, Ashaki B. Coleman, Richard J. Coley & Richard P. Phelps, Preparing Teacher Around the World.Policy Information Report. Educational Testing Service (ETS), 2003.

3/ Board of Teacher registration, Professional standards for graduates and guidelines for pre – service teacher education programs,Queenslands, 2002.

4/ Sheila Nataraj Kirby, Roforming teacher educationRAND Education, 2004.

5/ Linda Darling – Hammond, Teacher Quality and Student Achievement– Stanford University –http://www.epinet.org.bock, 1993.

Chú thích

1/ Các kĩ năng và giá trị trên là sự kết hợp chặt chẽ và mở rộng 8 chuẩn mực hành nghề nghiệp được thiết lập như là những yêu cầu để có chứng nhận là GV thực thụ của Viện Giảng dạy Victoria – Australia.

2/ Các môn tự chọn: tích hợp chương trình; Giảng dạy ở những năm giữa; GD bản địa Úc; Thúc đẩy hạnh phúc của HS; Giảng dạy vì một thế giới bền vững; Dự án thương lượng; Lớp học nghệ thuật…

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.