Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 29/11/2006 23:21 (GMT+7)

Chữ viết hangul trong bức tranh chữ viết khu vực

Hangulhay Hunmin Cheongeum(Huấn dân chính âm) là tên hệ thống văn tự (chữ viết) tiếng Hàn, một ngôn ngữ hiện có khoảng trên 72 triệu người nói 1trên thế giới với tư cách là ngôn ngữ thứ nhất. Hệ thống chữ viết Hangul ra đời năm 1446 và cho đến nay đã tròn 560 năm, khoảng thời gian chưa dài so với một chuỗi những thiên niên kỉ hình thành và phát triển của nhân loại nói chung và dân tộc Hàn nói riêng nhưng đã để lại những thành tựu to lớn trong nền văn hoá thành văn của dân tộc Hàn, có vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển văn hoá, giáo dục trên bán đảo Hàn trong suốt gần 6 thế kỷ qua và đã đưa dân tộc Hàn tiến những bước tiến khổng lồ trên con đường văn minh.

Bảng phân loại các chữ viết trên thế giới dưới đây sẽ cho ta một hình dung khái quát về mặt loại hình của chữ viết Hangul.

STT

Loại chữ viết

Yếu tố đại diện tiêu biểu

Ví dụ

1

Chữ viết tượng hình

Hình vị

Tiếng Trung Quốc hanzi

2

Chữ viết ghi âm tiết

Âm tiết

Tiếng Nhật kana

3

Chữ viết ghi âm tố (Văn tự ABC)

Âm vị (phụ âm hoặc nguyên âm)

Chữ cái La tinh

4

Chữ viết con dấu 2

Âm vị (phụ âm và nguyên âm)

Tiếng Ấn Devanãgarĩ

5

Chữ viêt Ả Rập

Âm vị (phụ âm)

Chữ cái Ả Rập

6

Chữ viết dùng nét đặc trưng

Nét đặc trưng âm vị

Tiếng Hàn hangul

Nguồn: Asher R. E., The Encyclopedia of Languages and Linguistics, Pergamon Press, 1994.

Theo bảng phân loại trên, chữ viết Hangul thuộc loại chữ viết dùng nét đặc trưng âm vị. Ở loại chữ viết này, mỗi nét dặc trưng có thể đại diện cho một âm vị nhưng cũng có thể đại diện cho những yếu tố (elements/ features) cấu thành âm vị. Chẳng hạn, chữ Hangul ban đầu có 19 phụ âm nhưng chúng không được tạo ra như 19 con chữ riêng biệt. Đầu tiên, người ta tạo ra 5 chữ cơ bản trên cơ sở mô phỏng hình dáng của các cơ quan phát âm rồi dựa vào 5 con chữ này để tạo ra những con chữ còn lại bằng cách ghép chúng lại với nhau hoặc thêm nét vào.

Lịch sử sáng tạo chữ viết của loài người trải qua ba giai đoạn với ba nguyên tắc sáng tạo cơ bản là nguyên tắc tượng hình, nguyên tắc tượng hình – ghi ývà cuối cùng là nguyên tắc ghi âm. Trong đó, nguyên tắc ghi âm là nguyên tắc sáng tạo tiên tiến và khoa học nhất. Với loại chữ viết ghi âm, quá trình sáng tạo chữ viết của loại người kéo dài hàng chục vạn năm đã kết thúc.

Chữ viết Hangul được vua Sejong (1397 – 1450) sáng tạo trên nguyên tắc tiên tiến nhất là nguyên tắc ghi âm. Thật vậy, không phải bỗng nhiên mà Asher viết “ Vua Sejong là một trong những nhà ngữ âm học lớn nhất của đất nước ông3. Không chỉ là một nhà ngữ âm học, Sejong còn là một nhà triết học tài ba. Sự quan tâm của ông đối với ngữ âm học được thể hiện qua thực tế là ông đã 13 lần gửi các học giả của mình đến thụ giáo từ một nhà ngữ âm học Trung Hoa nổi tiếng sống ở Mãn Châu. Kết quả của những lần thụ giáo ấy kết hợp với sự tinh thông triết học là những ý tưởng sáng tạo chữ viết Hangul với cơ sở triết học tuyệt vời của nó. Cơ sở triết học này dựa trên một số nội dung cơ bản của triết học Trung Hoa về sự hài hoà giữa con người với tự nhiên để tồn tại. Việc sáng tạo 19 phụ âm tiếng Hàn được bắt đầu từ việc sáng tạo 5 con chữ biểu hiện 5 phụ âm cơ bản dựa trên hình dạng của các cơ quan phát âm, nguyên lý này tưởng như bình thường nhưng ẩn tàng sau nó là cả một triết lý sáng tạo trên cơ sở tận dụng và hài hoà với tự nhiên. Việc sáng tạo các nguyên âm cũng được bắt đầu từ 3 con chữ biểu hiện 3 nguyên âm cơ bản. Tuy nhiên, xuất phát từ cơ chế phát âm các nguyên âm, Sejong đã nhận thấy các nguyên âm không có khả năng tượng trưng cho cơ quan phát âm nên đã chọn một chỗ dựa khác. Ba chữ cơ bản đầu tiên của các nguyên âm được sáng tạo trên cơ sở mô phỏng hình dạng của ba yếu tố: trời, đất và con người. Đây là một nguyên lý sáng tạo độc nhất vô nhị trong lịch sử sáng tạo chữ viết nhân loại.

Cùng với tính khoa học và tiên tiến trong nguyên lý sáng tạo, cơ sở triết học của việc sáng tạo chữ viết Hangul đã nâng vị thế của nó lên tầm của một trong những hệ thống chữ viết vừa mang tính khoa học vừa có một vẻ đẹp trí tuệ hiếm có.

2. Chữ viết Hangul trong bức tranh chữ viết khu vực

Xưa nay, có nhiều tiêu chí để các nhà ngôn ngữ học phân loại các ngôn ngữ: có thể phân loại theo tiêu chí cùng ngữ hệ, có thể theo tiêu chí cùng loại hìnhvà cũng có thể phân loại theo tiêu chí cùng khu vực. Tiếng Hàn thuộc khu vực ngôn ngữ Đông Á và cùng với nó có tiếng Nhật, tiếng Trung.

Để nhìn nhận chữ viết Hangul trong bức tranh chung của chữ viết trong khu vực, một điều đầu tiên chúng tôi thấy cần xác định là các nước trong một khu vực, thậm chí các đồng văn (các nước cùng khu vực có thể không đồng văn), các ngôn ngữ cùng loại hình, cùng ngữ hệ có thể có rất nhiều điểm tương đồng nhưng chưa chắc đã tương đồng với nhau về loại hình chữ viết. Điều này rất điển hình ở khu vực châu Á. Thật vậy, ai cũng biết Trung Quốc, Nhật Bản và bán đảo Hàn (Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc) là những nước đồng văn với những mối quan hệ sâu đậm về nhiều mặt trong quá khứ lâu đời. Về ngôn ngữ, tiếng Nhật và tiếng Hàn cùng loại hình và ngữ hệ, tiếng Trung thuộc một loại hình và ngữ hệ khác nhưng để lại những dấu ấn đậm nét trong hai ngôn ngữ kia từ kết quả của những tiếp xúc lâu dài trong lịch sử. Tuy vậy, về mặt văn tự, bảng phân loại chữ viết mà chúng tôi dẫn theo Asher có thể gây ngạc nhiên cho nhiều người. Ba ngôn ngữ trong khu vực ngôn ngữ Đông Á này thuộc ba loại hình chữ viết rất khác nhau, cho dù nhìn hình thức bên ngoài sẽ có nhiều người nhầm tưởng là một dạng chữ khối vuông của chúng. Hình thức bên ngoài này khiến cho ngôn ngữ nọ (tiếng Hàn, tiếng Nhật) có thể mượn rất nhiều từ vựng và mẫu tự của ngôn ngữ kia (tiếng Trung) mà không gây cho người sử dụng, đặc biệt là người nước ngoài sử dụng chúng như một ngoại ngữ những “cú sốc” kiểu như những “cú sốc văn hoá” 4.

So sánh ba hệ thống chữ viết, có thể rút ra mấy đặc điểm sơ bộ sau đây:

Về thời điểm ra đời

Chữ Hán,so với chữ Hangul (tiếng Hàn) và chữ Kana (tiếng Nhật), là hệ thống chữ viết ra đời sớm hơn cả. Có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đến nay vẫn chưa thống nhất về thời điểm ra đời của chữ Hán. Tuy nhiên, có những cứ liệu khiến nhiều người tin rằng thứ văn tự này đã ra đời cách đây khoảng trên 3500 năm, nghĩa là có thể ra đời sau các loại văn tự như Ai Cập (được cho là xuất hiện vào khoảng 3000 năm trước Công Nguyên), Lưỡng Hà (được cho là xuất hiện vào khoảng năm 3200 trước Công Nguyên) và một số văn tự vùng Ấn Độ cổ đại (như chữ viết Xăng – cơ – ri được cho là xuất hiện vào khoảng 2500 năm trước Công Nguyên) 5.

Chữ Kanara đời vào khoảng thế kỷ thứ 13, cho dù sự tiếp xúc với Trung Quốc đã diễn ra từ vào khoảng thế kỷ 4 – 5 sau Công nguyên. Theo sự tiếp xúc này, sách vở của Nho gia và kinh điển Phật giáo (viết bằng chữ Hán) được truyền bá vào Nhật Bản ngày càng nhiều (chủ yếu qua bán đảo Hàn), người Nhật cũng đã từng dùng chữ Hán làm quốc gia văn tự trong một thời gian đáng kể nhưng mãi đến thế kỷ 13, chữ Kana mới được sáng tạo. So với chữ Hangul thì chữ Kana ra đời sớm hơn nhưng so với chữ Hán thì muộn hơn rất nhiều.

Chữ Hangulra đời muộn nhất trong khu vực Đông Á. Như đã biết, vào thế kỷ 15 năm 1446, chữ viết này mới được chính thức công bố. Có nhà nghiên cứu cho rằng nhờ việc Phật giáo được truyền bá mạnh mẽ và đạt đến thời hoàng kim của nó vào thế kỷ 12, sách kinh điển Phật giáo bằng chữ viết Ấn Độ được lưu hành rộng rãi đã tạo cho người Hàn cơ hội tiếp xúc với một hệ thống chữ viết được xây dựng trên nguyên tắc ghi âm. Có thể đây chính là một tiền đề kỹ thuật quan trọng dẫn đến sự ra đời của một hệ thống chữ viết ghi âm như đã thấy.

Về đặc điểm và khả năng sử dụng

Chữ Hán, như đã biết được sáng tạo theo nguyên tắc tượng hình. Đây là nguyên tắc sáng tạo đầu tiên, lâu đời và sơ khai nhất. Qua một quá trình phát triển suốt mấy nghìn năm, chữ Hán vẫn giữ nguyên tắc tượng hình – ghi ýcho dù nhiều học giả cho rằng lẽ ra người Trung Hoa đã có một bộ chữ viết đơn giản được xây dựng trên nguyên tắc ghi âm nếu như họ cố gắng đi đến cùng sự nhận thức (được cho rằng đã từng tồn tại trong lịch sử phát triển chữ viết của người Trung Hoa) 6rằng cái quan trọng nhất trong giao tiếp ngôn ngữ là âm thanh, vậy thì chỉ cần ghi được âm thanh là chữ viết hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng họ đã không làm được. Kết quả là, trong suốt 3000 năm lịch sử đã qua, chữ Hán không có cải tiến gì đáng kể ngoại trừ một sự biến đổi về hình thể cách đây khoảng 2000 năm. Vào thời điểm này, chữ Hán đa có một bước chuyển từ những chữ gần với hình vẽ thành những chữ được viết bằng đường nét. Nhưng bước chuyển này thực sự vẫn chỉ là việc hoạ lại hình vẽ với những nguyên tắc chặt chẽ hơn mà thôi 7. Thực tế chữ Hán vẫn rườm rà, rắc rối và vô cùng khó học, nó đã không thể thực hiện tốt chức năng của chữ viết để lưu giữ thông tin trong cuộc sống hiện đại. Sự rắc rối và khó học này có thể được chứng minh qua động cơ sáng tạo chính chữ Kana của người Nhật và chữ Hangul của người Hàn ngay ở những thời điểm mà chữ Hán đang là quốc gia văn tự của hai nước này. Hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử đã khiến hai dân tộc Nhật, Hàn phải mượn chữ Hán làm quốc gia văn tự nhưng tất cả đều đã phải cố gắng bằng mọi cách thoát ra khỏi hệ thống rườm rà của loại văn tự này cho dù sự cố gắng đó vẫn có những phần chưa trọn vẹn.

Chữ Kana, theo sự phân loại của Asher là một loại văn tự ghi âm tiết với hệ thống ký hiệu khá đơn giản. Tuy nhiên trên một văn bản tiếng Nhật bất kỳ ta có thể thấy rất nhiều chữ Hán xen lẫn chữ Kana. Những ký hiệu của chữ Kana này cũng được sáng tạo trên cơ sở chữ Hán nhưng đơn giản hơn. Mặc dù vậy, số chữ Hán thông dụng trên văn bản tiếng Nhật cũng lên tới trên dưới 2000 chữ (đối với bậc học phổ thông). Đối với những bậc học cao hơn hay với những loại văn bản thuộc phạm vi hành chính, học thuật, tôn giáo con số này còn lớn hơn nhiều. Trong lịch sử phát triển chữ việt Nhật Bản, đã có nhiều lần đặc biệt là thời điểm sau chiến tranh thế giới thứ II, một số học giả Nhật Bản đã từng đưa ra chủ trương cải cách chữ viết Nhật Bản, kêu gọi dùng chữ cái La tinh để xây dựng một hệ thống chữ viết ghi âm thật đơn giản nhưng không được ủng hộ. Vì lý do đó, cho đến nay chữ viết Nhật Bản vẫn là một loại văn tự hỗn hợp khó viết và không dễ học. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc phổ biến ngôn ngữ, văn hoá và phát triển khoa học.

Chữ Hangul, là sản phẩm của bước nhảy vọt cuối cùng của nhân loại trong quá trình sáng tạo chữ viết và vì vậy như một tất yếu, nó tiên tiến và khoa học hơn các hệ thống văn tự khác trong khu vực rất nhiều. Hình dạng chữ viêt khối vuông là ảnh hưởng của chữ Hán nhưng nguyên tắc ghi âm là kết quả sự kế thừa những thành tựu tiên tiến của văn minh nhân loại. Tất nhiên, quá trình tiếp xúc lâu dài với tiếng Hán vẫn để lại một số lượng từ vựng tiếng Hán rất đáng kể trong tiếng Hàn và lớp từ đó thoạt đầu vẫn được viết nguyên dạng. Tiếp xúc với một văn bản tiếng Hàn, ta có thể vẫn thấy một tỷ lệ nhất định chữ Hán xen kẽ với chữ Hangul nhưng không nhiều như văn bản tiếng Nhật. Qua nhiều lần cải tiến, người Hàn chủ trương ghi âm toàn bộ chữ Hán bằng chữ Hangul, ở một số văn bản khoa học người ta có thể để chữ Hán nguyên dạng trong ngoặc đơn để người dùng khi cần thì tiện đối chiếu. Đây là một giải pháp hữu hiệu, đặc biệt có hiệu quả trong giáo dục tiếng Hàn và khuếch trương văn hoá Hàn ra thế giới. Chủ trương ghi âm này giống như một hành động “nhất cử lưỡng tiện”, vừa giữ được hiện trạng vay mượn từ vựng tiếng Hán của tiếng Hàn đã có từ lâu đời vừa đảm bảo được tính khoa học của nguyên tắc ghi âm vừa giữ được đặc điểm đơn giản, tiện dụng, dễ học, dễ nhớ của tiếng Hàn.

Nếu so sánh các dân tộc trong khu vực cùng chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa và chữ Hán như Nhật, Hàn và Việt Nam thì có thể thấy những tương đồng rõ nét trong lịch sử vay mượn ngôn ngữ và văn tự Hán của cả ba dân tộc này. Sau một thời gian dài dùng chữ Hán làm quốc gia văn tự, cả ba dân tộc đều đã đạt được những thành tựu lớn trong cố gắng thoát khỏi loại chữ viết phức tạp này để tìm kiếm phương tiện lưu giữ và vận chuyển lời nói của chính mình ở những mức độ khác nhau. Trong số đó, Việt Nam là dân tộc thành công và triệt để hơn cả với chữ Quốc ngữ. Trong hai dân tộc còn lại, người Hàn đã tỏ ra thành công hơn người Nhật do lựa chọn nguyên tắc sáng tạo chữ viết tiên tiến hơn, cũng vì thế người Hàn đã dễ dàng chuyển đổi, tự sửa và cải cách việc ghi chép khối lượng từ vựng tiếng Hàn khổng lồ bằng chữ Hangul một cách hiệu quả và triệt để hơn.

Đặt trong bức tranh chung của chữ viết khu vực, chúng ta càng thấy rõ hơn lúc nào hết những ưu thế vượt trội của chữ viết Hangul, của tiếng Hàn ở vẻ đẹp trí tuệ của nó. Đó là tính khoa học và ý nghĩa triết học, là sự tiện dụng và khả năng phổ biến rộng rãi, điều này thực tế đã và sẽ không làm nản lòng bất kỳ ai muốn học, muốn tìm hiều tiếng Hàn. Vẻ đẹp đó đã từng có ý nghĩa và sẽ còn có nhiều ý nghĩa đối với sự nghiệp phát triển giáo dục tiếng Hàn, truyền bà và khuếch trương văn hoá Hàn ra bất cứ nơi đâu.

______________________

1Sampson Geoffrey, The Korean Language, Cambridge University Press, 1999.

2Chúng tôi dùng tên gọi mà Đặng Đức Siêu dùng để gọi loại chữ viết này do rất khó tìm một thuật ngữ tương đương trong hệ thống thuật ngữ ngôn ngữ học tiếng Việt.

3Nguyên bản: “King Sejong was one of the best phoneticians of his country”. Dẫn theo Asher R. E., The Encyclopedia of Languages and Linguistics, Pergamon Press, 1994.

4Cảm giác khó chịu của người thuộc nền văn hoá này khi tiếp xúc với những điều lạ lẫm thuộc nền văn hoá khác. Dẫn theo Grant Evans , Bức khảm văn hoá châu Á - tiếp cận nhân học, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, 2001.

5Dẫn theo Đặng Đức Siêu, Chữ viết trong các nền văn hoá, Nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1982.

6Dẫn theo Đặng Đức Siêu, Chữ viết trong các nền văn hoá, Nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1982.

7Theo Gari K. Ledyard, The Korean Language Reform of 1446, Uninversity of California Berkeley Press, 1966.

Tài liệu tham khảo

1. Asher R. E. - The Encyclopedia of Languages and Linguistics, Pergamon Press, 1994.

2. Gari K. Ledyard - The Korean Language Reform of 1446, Universityof California Berkeley Press, 19966.

3. Grant Evans - Bức khảm văn hoá châu Á - tiếp cận nhân học, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, 2001.

4. Keith Pratt & Richard Rutt - Korea- A Historical and Cultural Dictionary, Curzon Press, 1999.

5. Peter H. Lee, - A History of Korean Literature, Cambridge University Press, 2003.

6. Sampson Geoffrey - The Korean Language, Cambridge University Press, 1999.

7. Đặng Đức Siêu - Chữ viết trong các nền văn hoá, Nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1982.

8. Đoàn Thiện Thuật - Ngữ âm tiếng Việt(In lần thứ 3), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.

Nguồn: Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, tháng 10/2006

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Đảng ủy LHHVN tổ chức Lễ trao huy hiệu Đảng và Hội nghị chuyên đề "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một"
Ngày 3/6, tại Hà Nội, Đảng ủy Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức Lễ trao tặng huy hiệu Đảng đợt 19/5/2025 và Hội nghị chuyên đề Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một".
Chủ tịch Phan Xuân Dũng tiếp và làm việc với Tham tán thương mại Đại sứ quán Iran
Ngày 30/5, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch VUSTA đã có buổi tiếp và làm việc với ông Mohsen Rezaeipour, Tham tán thương mại Đại sứ quán Iran tại Việt Nam về vấn đề chuyển giao và hợp tác trong lĩnh vực công nghệ cao.
LHH Bình Định và Gia Lai trao đổi kinh nghiệm, hướng tới mô hình tổ chức phù hợp sau sáp nhập
Ngày 28/5, tại TP Pleiku đã diễn ra buổi làm việc và trao đổi kinh nghiệm giữa Liên hiệp các Hội KH&KT (LHH) tỉnh Bình Định và LHH tỉnh Gia Lai. Buổi làm việc do ông Lê Văn Tâm – Phó Chủ tịch Thường trực LHH Bình Định và ông Nguyễn Danh – Chủ tịch LHH Gia Lai đồng chủ trì.
Nâng cao nhận thức và năng lực ứng dụng AI trong truyền thông, báo chí
Ngày 29-5, Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức Chương trình tập huấn với chủ đề “Trí tuệ nhân tạo (AI) – Ứng dụng trong báo chí hiện đại”. Học viên tham dự tập huấn là các phóng viên, biên tập viên thuộc các cơ quan báo chí của các Tổ chức KH&CN, Hội ngành toàn quốc trong hệ thống.
Quảng Ngãi: Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Thực hiện Chương trình phối hợp công tác năm 2025, Liên hiệp hội tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Quảng Bình: Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính - công vụ - xã hội
Ngày 28/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Quảng Bình tổ chức Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính- công vụ - xã hội cho 100 học viên là cán bộ, công chức, viên chức một số sở ngành, cơ quan Liên hiệp Hội và hội viên của các Hội thành viên.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng chúc mừng Liên hiệp hội Hà Tĩnh nhân Kỷ niệm 30 năm thành lập
Sáng 26/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hà Tĩnh (Liên hiệp hội) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập (27/5/1995-27/5/2025). Dự lễ kỷ niệm có Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Trần Nhật Tân, đại diện các tỉnh bạn, các sở ngành tại địa phương và lãnh đạo, cán bộ nhân viên của Liên hiệp hội qua các thời kỳ.
Phát động hưởng ứng Ngày phòng chống tác hại của thuốc lá tại Phú Yên
Sáng qua 28/5, tại Trường đại học Phú Yên, Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tỉnh phối hợp với Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam tổ chức lễ phát động hưởng ứng các hoạt động phòng chống tác hại của thuốc lá vì sức khỏe người tiêu dùng với thông điệp: “Phòng chống tác hại của thuốc lá bảo vệ thế hệ tương lai”, “Vì sức khỏe người tiêu dùng hãy nói không với thuốc lá”.
Anh nông dân lớp 5 và hành trình tại Hội thi Sáng tạo kỹ thuật
Trong bối cảnh nông nghiệp ngày càng đòi hỏi sự đổi mới, thích ứng và sáng tạo để nâng cao năng suất và giảm chi phí lao động, một người nông dân tại Châu Phú, An Giang - dù chỉ học hết lớp 5 - đã chứng minh rằng: Tri thức không chỉ đến từ sách vở mà còn từ thực tiễn cần mẫn và khối óc sáng tạo không ngừng.
Trao Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam năm 2024
Tối 28/5, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã tổ chức Lễ tổng kết và trao Giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ (KHCN) Việt Nam năm 2024.