"Chú khuyển" trong ca dao tục ngữ Việt Nam
Chưa dám phản bác ý kiến nghe có vẻ cảm tính đó của bạn, chúng tôi làm một việc đơn giản là thử thống kê trong các bộ sách lớn về kho tàng ca dao và tục ngữ của nước ta (1), tham khảo thêm một số từ điển về tục ngữ, thành ngữ Việt Nam, kết quả hơi lạ là số ca dao nói về con chó quá ít, chỉ hơn 10 lời, trong đó có cả những lời đồng dao như “... Con chó khóc đứng khóc ngồi/Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng”... và ngược lại, có hơn 200 câu tục ngữ (chưa kể những thành ngữ như “Hỗn như chó”, “Láo như chó”, “Dữ như chó”... ) với những nội dung (nhất là nghĩa bóng) khác nhau. Trong số 202 câu tục ngữ (2), chúng tôi thấy có thể phân thành ba loại lớn:
1. Xem con chó là một biểu tượng xấu xa và lấy đó để ví von, nói về những hiện tượng tiêu cực của xã hội hoặc của con người: 74/202 câu (36,6%).
2. Nói về tập tính của loài chó, từ đấy liên hệ đến tính tình của con người: 53/202 (26,3%).
3. Quan sát từ con chó để nói về những kinh nghiệm sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người: 75/202 (37,1%).
Về nội dung các câu tục ngữ loại thứ nhất, chó bị xem như con vật có rất nhiều tính xấu. Liên hệ để nói về người có câu Làm người thì khó, làm chó thì dễkhá tổng quát, còn nói cụ thể thì về tính tham lam có câu Chó có chê cứt thì người mới chê tiền,về thói hay tranh giành, có câu Hục hặc như chó với mèo,về thói ỷ lại thì Chó cậy gần nhà, gà cậy gần vườn.Câu Chó nhảy bàn độcnói về kẻ cơ hội chiếm địa vị cao, câu Chó mặc váy lĩnh, Chó ghẻ có mỡ đằng đuôichỉ kẻ không có đức, tài mà hợm hĩnh, kiêu kì, đua đòi, lố bịch. Câu Chó chực máu giác, Chó chực chuồng chồchỉ kẻ cam lòng chờ đợi, kiếm chút lợi lộc bẩn thỉu. Những kẻ cơ hội, xui nguyên giục bị là những kẻ Xuỵt chó bụi rậm, Quăng xương cho chó cắn nhau.Người ăn nói thiếu chững chạc, lúng búng thường được ví Nói như chó ngậm cám, Nói như chó ăn vụng bột,tật nói dai bị lên án là Nói dai như chó nhai giẻ rách.Thật tội nghiệp cho những chàng trai sống nhờ nhà vợ bị mỉa là Chó chui gầm chạn...
Về nội dung các câu tục ngữ loại thứ hai, có thể phân biệt những câu tục ngữ về tập tính tốt của chó, thống kê cho thấy có 28/202 câu (13,8%) trong đó có những câu về “chức năng” của chó như Chó giữ nhà, gà gáy sáng,những câu về trí nhớ của chó như Lạc đàng nắm đuôi chó, lạc ngõ nắm đuôi trâu.Từ cách nằm của chó, con người răn dạy nhau suy nghĩ cho kĩ trước khi nói Chó ba khoanh mới nằm, người ba năm mới nói...Về tập tính xấu của chó, thống kê cho thấy có 25/202 câu (12,3%) với nhiều câu nói đến tính hung dữ của chó như Chó dữ cắn càn, Hàm chó vó ngựa,đến bản năng của chó như Giậm giật như chó tháng bảy,đến bệnh dại của chó và được ngoa dụ với người Chó mà điên dại có mùa/Người mà điên dại không mùa không năm...
Về nội dung các câu tục ngữ loại thứ ba, quan sát từ con chó, dân gian đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm về sinh hoạt vật chất và tinh thần trong đời sống của con người. Đó có thể là kinh nghiệm xem thời tiết Ráng mỡ gà thì gió, ráng mỡ chó thì mưa, Chó khom lưng vãi cải, chó le lãi vãi mè(Thời tiết lạnh vãi cải, thời tiết đầu hè, nóng, chó le lưỡi, vãi vừng), Bán gà tránh trời gió, bán chó tránh trời mưa.Đó là cách chọn chó để nuôi như Chó khôn tứ túc huyền đề/ Tai thì hơi cúp, đuôi thì hơi cong; Khoang cổ, lổ đuôi, hại chủ nhàrồi thịt chó là món ăn đặc sản đến mức Sống trên đời ăn miếng dồi chó, chết về âm phủ biết có hay khônghoặc Chó già, gà non; Gà lọt giậu, chó sáu bát...Về kinh nghiệm trong ứng xử, giao tiếp bởi chó là loài vật dữ, hay cắn nên người phải dè chừng đừng để Chó dữ mất láng giềng.Chó dữ được ví với bọn gian ác cho nên bọn ấy mà chết cũng như chó chết và Chó chết hết cắnhay Chó chết hết chuyện...
Qua thống kê về ca dao, tục ngữ nói về “chú khuyển” trên đây, có thể rút ra mấy nhận xét:
1. Theo quan niệm của nhân dân ta, con chó có một số tính tốt nhưng tại sao trong tục ngữ, nhân dân ta nhìn rất rõ những điều xấu của chó hơn là tính tốt của nó? Khác với các vật nuôi khác như con gà, con ngựa, đặc biệt là con trâu được ca ngợi trong ca dao – thể loại có nội dung trữ tình – con chó chẳng được một “lời khen” trong ca dao! Tục ngữ là thể loại với nội dung “lí tính” lại nói nhiều về những tập tính của con chó với hơn 100/202 câu tục ngữ nói điều xấu của con chó. Điều này cho phép chúng ta khẳng định nhận xét có vẻ cảm tính về “chú khuyển” nêu ở đầu bài này là đúng.
2. Tìm nguyên nhân tại sao có nhiều tục ngữ nói về điều xấu của con chó, có thể cho đây là quan niệm chưa đúng của ông bà ta ngày xưa bắt nguồn từ việc cho con chó là loài vật hung dữ, hay cắn người, mang bệnh dại, thường ăn bẩn. Thành kiến đó được nhắc đi nhắc lại, xem là bản chất xấu xa của con chó, làm mờ nhạt những tính tốt của con chó và được đúc kết trong nhiều nội dung với những khía cạnh khác nhau trong tục ngữ nói về con chó.
3 Thật là bất công đối với “chú khuyển” nếu cứ giữ mãi quan niệm nêu trên. Ngày nay, trên thế giới (có thể từ lâu, theo quan niệm của nhiều dân tộc) người ta rất quý “chú khuyển” và đối xử khá văn minh với “chú” như có nhà máy sản xuất thức ăn riêng cho chó, có tiệm may trang phục cho chó, có dịch vụ tắm rửa cho chó, có bệnh viện cho chó, thậm chí còn có những câu lạc bộ để “tìm bạn tình” cho chó. Những chú chó nào lập nhiều thành tích trong truy tìm tội phạm còn được thưởng cả huân chương nữa. Thiết tưởng, ngày nay, quan niệm của chúng ta về “chú khuyển” cũng nên đổi mới để hội nhập với thế giới văn minh. Trong thực tế, ở nước ta cũng đã có những cơ sở dân sự về sản xuất thức ăn cho chó, tiêm phòng dại cho chó, huấn luyện chó làm xiếc, trong quân sự cũng cónhiều cơ sở huấn luyện chó nghiệp vụ và đã có những “chú khuyển” lập công xuất sắc. Hiện thực cuộc sống thay đổi dần, những điều kiện mới trong nuôi chó, sử dụng chó sẽ có lúc được phản ánh vào văn học nghệ thuật, trong đó có ca dao, tục ngữ. Trong tương lai, chắc quan niệm về điều tốt của “chú khuyển” sẽ phát triển và quan niệm cũ sẽ mất dần đi.
____________
(*)Nhà giáo ưu tú, Chi hội VNDG Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
(**) TS Điện lực, nghỉ hưu tại Hà Nội.
(1) Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (Chủ biên), Kho tàng ca dao người Việt,tập I, II, Nxb. Văn hoá - Thông tin, 2001.
(2) Nguyễn Xuân Kính (Chủ biên), Kho tàng tục ngữ người Việt,tập I, II, Nxb. Văn hoá - Thông tin, 2002.
(3) Chỉ thống kê những tục ngữchính, không kể các dị bản.