Chân dung GS Hoàng Minh Giám
Thời niên thiếu, Hoàng Minh Giám học ở Huế, sau đó ông ra Hà Nội học. Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương khóa II, ông bị Sở Mật thám Pháp xếp vào loại người không nên để ở Hà Nội nên cử đi dạy ở Trường Trung học Sisovath (Campuchia).
Tại đây, ông đã viết bài cho một số tờ báo bằng tiếng Pháp có xu hướng chống chế độ thực dân Pháp nên bị buộc thôi việc. Về Sài Gòn, ông dạy học ở các trường tư thục và tiếp tục viết cho các báo như: báo La Cloche Félée (Chuông Rè) của Nguyễn An Ninh, L”Annam (Nước Nam) của Phan Văn Trường, Le Nhaqué (Người Nhà quê) của Nguyễn Khánh Toàn.
Một trí thức lớn của cách mạng
Năm 1932, ông về Hà Nội dạy học ở Trường Tư thục Gia Long. Năm 1935, ông cùng nhiều trí thức yêu nước và tiến bộ như Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Phạm Vũ Ninh mở Trường Tư thục Thăng Long và ông là hiệu trưởng. Đây là ngôi trường tập hợp nhiều trí thức yêu nước tiến bộ và có nhiều học sinh tích cực tham gia hoạt động yêu nước, nhiều người sau này trở thành cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta. Ông là thầy học của nhiều trí thức trong và ngoài nước, có nhiều hoạt động để động viên và tạo điều kiện tốt nhất cho đội ngũ trí thức phát triển và đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ, dựng xây Tổ quốc.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Hoàng Minh Giám giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền, quốc hội và đoàn thể nhân dân. Ông trở thành một cộng sự gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp lúc vận nước “ngàn cân treo sợi tóc”.
Ngay khi từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã mời Hoàng Minh Giám tham gia Chính phủ Lâm thời và ngày 30-8-1945, Đại tướng đã ký Sắc lệnh số 1 cử ông làm Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ. Cùng ngày, ông cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Thiếu tá tình báo Mỹ Archimedes L.A.Patti, Trưởng phái bộ OSS. Ông đã được Bác Hồ tin tưởng giao cho những nhiệm vụ đối ngoại quan trọng, có mặt bên Bác trong những thời khắc lịch sử liên quan vận mệnh dân tộc, như đàm phán với Jean Sainteny, đại biểu Chính phủ Pháp, chuẩn bị cho việc ký kết Hiệp định sơ bộ 6-3-1946.
Đặc biệt, ông còn tháp tùng Bác Hồ hội kiến với Đô đốc kiêm Cao ủy Pháp ở Đông Dương, Georges Thierry DArgenlieu ở vịnh Hạ Long, để đi đến quyết định triệu tập hội nghị trù bị Việt - Pháp tại Đà Lạt, chuẩn bị cho hội nghị chính thức ở Fontainebleau và là thành viên của Chính phủ trong Hội nghị này tại Pháp. Ngày 19-12-1946, ông chính là người chuyển bức thư của Hồ Chủ tịch đến Sainteny và bị văn phòng Sainteny khước từ, và đêm đó, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám (trái) đón tiếp đại diện Đảng Cộng sản Pháp Leo Figuene tại Việt Bắc, năm 1950 |
Sau ngày hòa bình lập lại, ông tiếp tục đại diện cho Việt Nam tham dự nhiều hội nghị quốc tế, thăm nhiều nước châu Á, Âu, Phi, Mỹ La tinh...
Ông luôn quan tâm đến hệ thống tổ chức, xây dựng những thiết chế văn hóa: bảo tàng, thư viện, trường đại học. Đặc biệt, hoạt động điện ảnh đã được ông chú ý phát triển, bằng chứng là những thành công của nền điện ảnh cách mạng cho đến nay vẫn còn được ghi nhận. Hàng loạt bộ phim kinh điển được xây dựng, nhiều phim đoạt giải thưởng lớn tại các liên hoan phim quốc tế và trong nước, như “Chim vành khuyên”, “Chị Tư Hậu”, “Vợ chồng A phủ”, “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm”, “Em bé Hà Nội”, “Nổi gió”… Trong thời kỳ khó khăn gian khổ, bên cạnh văn nghệ phục vụ quân dân chiến đấu, sản xuất, Bộ trưởng Hoàng Minh Giám đã quan tâm tạo nền móng cho nghệ thuật bác học phát triển như tổ chức đào tạo và trình diễn nhạc giao hưởng, múa ba-lê...
Người nặng lòng với văn hóa dân tộc
Hơn 20 năm (1954 - 1976) trên cương vị Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền sau đó là Bộ trưởng Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch), Bộ trưởng Hoàng Minh Giám đã có công lao xây dựng ngành văn hóa với những tư tưởng và chương trình hành động mang tầm chiến lược. Ông đặc biệt quan tâm chăm lo bảo vệ di sản văn hóa của dân tộc, nhờ đó, nhiều di sản có giá trị đã được gìn giữ đến hôm nay. Ông là người có công lớn trong việc phục hồi các loại hình nghệ thuật truyền thống như tuồng, chèo, cải lương, mà đến hôm nay trong hội nhập phát triển, ta mới thấy tầm vóc tư tưởng ấy là hoàn toàn đúng đắn.
Do công lao và những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng, Bộ trưởng Hoàng Minh Giám đã được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất... cùng nhiều phần thưởng cao quý khác của các bộ, ngành trong nước và quốc tế. Tên ông đã được đặt cho một đường phố ở Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.Ông là một trong những đại biểu quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam DCCH, liên tục là đại biểu quốc hội khóa I đến khóa VII và đến năm 1987, khi tuổi cao sức yếu mới nghỉ.
Ông là người tích cực tham gia công tác mặt trận, từng giữ các cương vị là Phó Chủ tịch Ủy ban Liên Việt toàn quốc (tháng 3-1951); ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955-1976). Sau đó, ông tiếp tục được cử vào Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Thống nhất (tháng 1-1977) và là ủy viên danh dự Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Đại hội Mặt trận Tổ quốc lần thứ IV, năm 1994.
Ngày 8-6-1950, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước đó, năm 1946, ông là một trong những người tham gia sáng lập Đảng Xã hội Việt Nam (1946-1988). Ông lần lượt được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Xã hội Việt Nam, Phó Tổng thư ký Ban Chấp hành Trung ương Đảng và liên tục giữ cương vị này cho đến khi Đảng Xã hội Việt Nam chấm dứt hoạt động, tháng 10-1988.
Giáo sư Hoàng Minh Giám đã cùng đất nước đi trọn chặng đường lịch sử, và với bất kỳ cương vị nào, ông cũng đều mẫn cán, trách nhiệm, có những đóng góp có tính nền móng cho nhiều lĩnh vực. Trọn cuộc đời, Giáo sư Hoàng Minh Giám đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cho sự phát triển văn hóa, ngoại giao và giáo dục của đất nước. Đúng như cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người đồng nghiệp, đồng chí thân thiết của Giáo sư đánh giá: Hoàng Minh Giám - tấm gương sáng cho đông đảo anh em trí thức Việt Nam ta bây giờ và mãi mãi sau này.