Chẩn đoán bằng siêu âm
Siêu âm là những rung động cơ học cùng bản chất với âm thanh nhưng có tần số rất lớn, trên 20kHz (*). Trong thiên nhiên, các loài dơi, cá heo,… có khả năng phát ra sóng siêu âm từ 20kHz – 100kHz để định hướng. Y học sử dụng sóng siêu âm có tần số 700kHz – 50MHz (**). Siêu âm chẩn đoán là một trong những kỹ thuật chẩn đoán bệnh bằng hình ảnh; đã có từ năm 1942, khi Ian Dussik nhờ dùng siêu âm nên thấy được các rãnh liên bán cấu não; năm 1958, Ian Donald ứng dụng siêu âm trong sản khoa. Ở Việt Nam , siêu âm chẩn đoán đã trở thành phổ biến từ năm 1986. Siêu âm đã giúp rất nhiều cho các bác sĩ trong chẩn đoán bệnh nhờ giúp thấy được hình ảnh của một số cơ quan bên trong cơ thể của bệnh nhân ở trạng thái động với thời gian thực; siêu âm có thể sử dụng trong lúc nội soi và trong lúc phẫu thuật; siêu âm không gây hại cho người bệnh như tia X, không gây đau, không gây chảy máu, không cần chuẩn bị gì đặc biệt cho bệnh nhân.
Khi khám bệnh bằng siêu âm, người bác sĩ sẽ đặt đầu dò của máy siêu âm vào nơi cần quan sát. Đầu đó là dụng cụ phát và thu sóng siêu âm dội về. Tín hiệu thu lại sẽ được máy tính xử lý và tạo ra hình ảnh của cơ quan cần khảo sát.
Siêu âm có khả năng quan sát tốt trong các lĩnh vực khảo sát như tim - mạch, bụng, não trẻ em, mắt, tuyến giáp, vú, bìu, sản phụ khoa. Phổi và xương là thế mạnh của X quang.
Khi siêu âm bụng, tuỳ theo yêu cầu mà người bệnh sẽ được cho uống nước để quan sát tuỵ và dạ dày rõ hơn, dặn nín tiểu cho bàng quang căng là để có thể thấy và phân biệt các cơ quan trong vùng chậu như tiền liệt tuyến, tử cung, buồng trứng…
Gel sử dụng trong siêu âm là chất dịch, bản chất là nước, không gây kích ứng da, thoa lên người bệnh nhân nhằm loại bỏ không khí chen giữa đầu dò với da bệnh nhân để giúp cho sự truyền âm được tốt, tạo hình ảnh rõ và cũng làm cho sự di chuyển đầu dò được dễ dàng hơn.
Siêu âm màu hay siêu âm đen trắng là gì?
Khác với sự phân biệt giữa tivi trắng đen và tivi màu, máy siêu âm màu cũng là máy siêu âm trắng đen (2 chiều) có gắn thêm hiệu ứng Doppler nhờ đó mà hình ảnh mạch máu sẽ được tô màu theo quy ước của hiệu ứng Doppler, giúp bác sĩ siêu âm nhận diện mạch máu, phân biệt được động mạch với tĩnh mạch và biết được vận tốc chảy của dòng máu tại nơi đó. Do vậy siêu âm màu hay siêu âm Doppler được dùng để khảo sát các bệnh lý liên quan đến mạch máu: bệnh lý tim, bệnh lý mạch máu khi nghi ngờ có sự nghẽn tắc trong lòng mạch, hoặc có sự tăng sinh mạch máu bất thường chung quanh khối u ác tính…
Siêu âm màu cũng chỉ đánh giá được mạch máu có kích thước từ trung bình trở lên.
Ngoài siêu âm thường (2 chiều), có siêu âm 3 chiều (3D) hay siêu âm 4 chiều (4D).
Siêu âm 3 chiều cũng là máy siêu âm 2 chiều (2D) nhưng có thêm phần mềm điện toán giúp tái tạo các cấu trúc bề mặt trên không gian 3 chiều từ những hình ảnh ai chiều. Hình 3 chiều (hình khối) được tạo ra là hình tĩnh.
Máy siêu âm 4 chiều tiến bộ hơn, có tốc độ quét nhanh hơn máy 3 chiều nên tái tạo được hình ảnh 3 chiều cử động theo thời gian thât. Trong siêu âm thai, máy siêu âm 4 chiều giúp bà mẹ có thể thấy hình ảnh em bé trong bụng cử động, giống như được “truyền hình trực tiếp”. Chiều thứ tư chính là chiều biểu diễn thời gian.
Siêu âm là phương tiện chẩn đoán không xâm lấn có thể làm hại nhiều lần mà không sợ nguy hại cho người bệnh, như siêu âm để theo dõi sự phóng noãn, canh trứng rụng… để điều trị vô sinh… Siêu âm đã chứng tỏ được ưu thế rất mạnh trong chẩn đoán các bệnh lý cấp cứu vùng bụng. Siêu âm có thể trang bị ở mọi nơi, tiện dụng vì di chuyển dễ dàng, có thể mang tới tận giường người bệnh nặng để khám và cho kết quả tức thì. Dù có nhiều ưu thế, siêu âm cũng chỉ là một kỹ thuật chẩn đoán trong chuyên khoa chẩn đoán hình ảnh, siêu âm không thay được các kỹ thuật chẩn đoán khác và sẽ không bao giờ thay thế được sự thăm khám của người bác sĩ lâm sàng.
__________
(*) 1kHz – 10 3Hz
(**) 1MHz = 10 6Hz
Tai người nghe được âm thanh ở tần số 16Hz – 20kHz.
Nguồn: Thuốc & Sức khoẻ, số 308 (15/5/2005)