Cây Hoàng cầm
Giá trị sử dụng của Hoàng cầm là ở bộ rễ. Từ gốc cây, một chiếc rễ chắc, hơi mảnh đâm xuống đất dài khoảng mười lăm phân hoặc hơn chút nữa. Bề ngang, ngang tầm chiếc quản bút hoặc nhỉnh hơn, thuôn nhỏ dần về cuối rễ. Vỏ ngoài màu vàng sậm (vàng đất) với những nếp nhăn tạo thành những rãnh nho nhỏ chạy dọc từ trên xuống dưới. Trong ruột màu vàng tro (vàng pha lẫn xanh đen). Rễ Hoàng cầm chia làm 2 loại:
- Điều cầm:là rễ to, chắc, bên trong đặc quánh, hơi mềm chút xíu. Vỏ ngoài và trong ruột đều tươi nhuận (loại tốt).
- Khô cầm:là rễ mảnh dẻ, khô cứng. Ngoài vỏ và trong ruột có màu vàng xám (vàng ít xám nhiều) loại kém.
Vào mùa thu, người ta đào rễ Hoàng cầm về rửa sạch, cắt bỏ rễ phụ, phơi hoặc sấy khô dùng làm thuốc.
Theo tài liệu cổ:Hoàng cầm có vị đắng, tính hàn vào 5 kinh: phế, tâm, can, đởm, đại tràng có tác dụng tả phế hỏa, thanh thấp nhiệt; dùng để chữa các chứng phế nhiệt sinh ho, thấp nhiệt, tả lỵ, cảm mạo, đau đầu, động thai,...
Ngày nay, các nhà khoa học chứng minh Hoàng cầm còn có khả năng kháng khuẩn, chống virus và dị ứng khá mạnh, khả năng giải nhiệt, khả năng hạ huyết áp và những khả năng lợi mật, bảo vệ gan, lợi tiểu, đồng thời còn có khả năng chữa chứng co giật, an thần và giải độc.
Vài phương dược có vị Hoàng cầm
* Phương Hoàng cầm thang (cổ phương):
Chủ trị:Tỳ vị hư nhược, tự són phân.
Hoàng cầm 12g
Thược dược 8g
Cam thảo 8g
Đại táo 3 quả
Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần vào lúc đói, thuốc còn ấm. Kiêng các chất tanh, béo, sống, lạnh, gỏi, chiên, xào, nướng và các chất khó tiêu,...
Ghi chú:Từ phương thuốc trên bỏ Đại táo trị chứng chảy máu cam hay lỵ nhiệt.
* Phương Long đởm tả can thang (cổ phương):
Chủ trị:Thấp nhiệt lưu trú tại can đởm gây đau hông sườn và sưng đau âm hành.
Long đởm thảo 20g
Hoàng cầm 16g
Đương quy 20g
Sinh địa 20g
Mộc thông 16g
Sa tiền 12g
Chi tử 12g
Sài hồ 16g
Trạch tả 12g
Cam thảo 4g
Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần xa bữa ăn 30 phút. Kiêng các chất kích thích cay, nóng, đặc biệt là rượu bia.








