Cây Đinh lăng – Cây thuốc quý
Đinh lăng là cây gỗ nhỏ, cao 0,8 - 1,5m, không lông, không gai. Lá kép 3 lần lông chim, dài 20 - 40cm. Lá chét có cuống nhỏ và mảnh dài 3 - 15mm, dạng màng, khía răng không đều, phần nhiều khía hay chia thuỳ, có mũi nhọn, dài 3 - 10cm, rộng 0,6 - 4cm. Hoa nhỏ thành cờ, tán ngắn (dài 7 - 18cm). Quả dẹt màu trắng bạc, dài và rộng khoảng 3 - 4mm, dày 1mm, đội các vòi còn lại. Cây ra hoa tháng 4 - 7.
Trong rễ có glucozit, alcaloit, saponin triterpen, flavonoit tanin và 13 loại axit amin trong đó có lyzin, xystein, methionin là những axit amin không thể thay thế được. Vitamin B1 trong thân và lá cũng có nhưng ít hơn.
Qua nghiên cứu và thử nghiệm, Viện Y học quân sự đã tìm được từ cây Đinh lăng những tính chất của Nhân sâm: Rễ Đinh lăng có tác dụng làm tăng cường sức dẻo dai và sức đề kháng của cơ thể, chống hiện tượng mệt mỏi, giúp ăn ngủ ngon, tăng khả năng lao động, lên cân và chống độc.
Rễ Đinh lăng được thu hái vào mùa thu, đông ở những cây đã trồng từ 3 năm trở lên, rễ mềm có nhiều hoạt chất. Rửa sạch, cắt bỏ phần rễ sát với gốc thân, rễ nhỏ thì dùng cả, rễ to chỉ dùng vỏ. Thái nhỏ, phơi khô ở chỗ mát, thoáng gió để bảo đảm mùi thơm và phẩm chất. Khi dùng để nguyên hoặc tẩm rượu Gừng 5%, sao qua rồi tẩm 5% Mật ong, sao thơm. Dược liệu có vị ngọt, đắng, mùi thơm, tính mát, không độc. Được dùng dưới những dạng sau:
Thuốc ngâm rượu: Rễ Đinh lăng khô, không sao tẩm 100g, tán nhỏ, ngâm với 1 lít rượu 30 – 35 độ trong 7 - 10 ngày. Thỉnh thoảng lắc đều. Ngày dùng 2 lần, mỗi lần 6 - 10ml, uống trước bữa ăn nửa giờ.
Thuốc bột và thuốc viên: Rễ Đinh lăng đã sao tẩm 100g, tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống 0,5 - 1g hoặc trộn bột với Mật ong vừa đủ, làm thành viên, mỗi viên 0,25 - 0,5g. Ngày uống 2 - 4 viên, chia làm 2 lần.
Thuốc hãm: Rễ Đinh lăng đã sao tẩm 5 - 10g, hãm với nước sôi như hãm chè, uống làm nhiều lần trong ngày.
Viện Y học quân sự đã dùng viên bột rễ Đinh lăng cho bộ đội tập luyện hành quân. Kết quả cho thấy khả năng chịu đựng và sức dẻo dai của họ được tăng lên rõ rệt. Các nhà khoa học Việt Nam và Nga cũng nhận thấy rễ Đinh lăng có tác dụng tốt đối với các nhà du hành vũ trụ khi luyện tập.
Ngoài ra, theo Y học cổ truyền, Hải Thượng Lãn Ông đã dùng rễ Đinh lăng sao vàng, sắc cho phụ nữ uống sau khi đẻ để chống bệnh đau dạ con và làm tăng tiết sữa. Tuy nhiên, cần dùng thuốc đúng liều, dùng rễ Đinh lăng liều cao sẽ thấy hiện tượng say, mệt mỏi. Lá Đinh lăng được dùng theo kinh nghiệm dân gian để tránh bệnh kinh giật cho trẻ em. Lấy cả lá non và lá già phi khô đem lót gối hoặc trải giường cho trẻ nằm. Thân và cành Đinh lăng sắc uống với liều 20 - 30g, chữa đau lưng, mỏi gối tê thấp. Dùng riêng hoặc phối hợp với rễ cây Xấu hổ, Cúc tần, Bưởi bung, Camthảo dây.
Đinh lăng còn được dùng chữa ban sởi, ho ra máu, kiết lỵ. Phối hợp với Sữa ong chúa là thuốc bổ rất tốt.
Chú ý: Tránh nhầm với cây Đinh lăng lá tròn ( Polyscias balfourianaBailey, Đinh lăng lá to hay Đinh lăng lá ráng ( Polysciasfilicifolia (Merr)Baill, Đinh lăng trổ hay Đinh lăng viền bạc ( Polyscias guilfoyleiBaill), Đinh lăng đĩa ( Nothopanax scutellarius(Burm.f.) Merr., Đinh lăng răng ( Polyscias serrataBail) và loài Polyscias sambucifolia(Sieber) Harms. Những loài này không dùng làm thuốc.
Nguồn: Cây thuốc quý, số 21