Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 17/04/2013 22:00 (GMT+7)

Cao Xuân Dục -Danh nhân tiêu biểu trong dòng chảy văn hóa giáo dục Việt Nam

Bộ trưởng giáo dục đầu tiên

Cụ Cao Xuân Dục sinh năm 1842, mãi 36 tuổi mới đỗ cử nhân, rồi ra làm quan, từ biện lý bộ hình đến Án sát, Bố chánh, Tuần phủ, Tổng đốc… sau đó, trong khoảng 13 – 14 năm (1898 – 1912) giữ năm chức toàn là việc khoa học và giáo dục. Tính từ năm Cao Xuân Dục đỗ cử nhân (1876) đến lúc cụ giữ chức Phó tổng tài Quốc sử quán cả nước có hơn 100 vị đỗ đại khoa (Phó bảng, Tiến sĩ), và 9 năm nữa, đến năm cụ nhận chức Thượng thư Bộ Học (1898 – 1907) có thêm khoảng 50 vị đỗ đại khoa nữa (1). Số vị đỗ cử nhân trong khoảng thời gian đó chắc chắn còn đông hơn. Thế mà lần đầu tiên Việt Nam có Bộ Học (tách từ Bộ Lễ ra), cử nhân Cao Xuân Dục đã được bổ nhiệm làm bộ trưởng, ông trở thành bộ trưởng giáo dục đầu tiên trong lịch sử giáo dục nước nhà.

Chỉ với bằng cử nhân, nhưng chính giới và các bậc trí giả cùng thời đều thán phục cụ là người học rộng biết nhiều, một tấm gương tự học có một không hai, bác học uyên thâm, đặc biệt, như chính cụ tự nhận “theo nghề văn chương câu cú” (2), xây dựng tủ sách gia đình đến một, hai vạn cuốn, viết rất nhiều, và có tài “thực thi những điều đã học” (3), một nho gia lừng danh ở kinh đô, trong triều đình và mọi miền Nam Bắc. Ngay một số quan chức Pháp một mặt không ưa gì Cao Xuân Dục, mặt khác vẫn thán phục ông là một người rất có học thức, thông minh có tiếng, “một nho sĩ tinh tế, có những quan niệm độc đáo được diễn đạt bằng một ngòi bút nhuần nhị và óng ả” (4). Đăng tin cụ mất, báo Diễn đàn bản xứviết: Cụ là người có tâm hồn cao đẹp, đầy đức độ và nhân ái, một nho sĩ nhuần nhị nhất” (5). Người đầy đức độ và nhân ái xứng đáng được được giaoo trọng trách bộ trưởng đầu tiên bộ giáo dục nước nhà.

Cao Xuân Dục giữ các chức trách tất cả 36 năm 6 tháng, trong một nửa làm quan, nhưng cụ “đã chọn cho mình một lối làm quan rất riêng biệt”, như nhà văn Sơn Tùng (2002) viết: “Cao Xuân Dục ẩn thân chốn quan trường che chở cho dân lành” (6). Về hệ tư tưởng, cuối thế kỷ XIX áp lực Nho giáo ở Việt Nam vẫn mạnh, mặc dù nước ta đang ở buổi giao thời từ chế độ phong kiến sang chế độ nửa phong kiến nửa thực dân và vào thời kỳ nước nhà lạc hậu bắt đầu tiếp xúc với những yếu tố văn minh phương Tây. Năm 1896, Toàn quyền Đông Dương ký quyết định thành lập trường Quốc học Huế, năm 1905 thành lập trường Bưởi ở Hà Nội… Trong hoàn cảnh ấy Cao Xuân Dục lo nghĩ nhiều đến việc giáo dục, đến nền văn hiến dân tộc. Năm 1905, cụ đã nhận định: “Sự tiến hóa rồi đây thực khó lường biết trước”, ngày nay (năm 1911) là “thời đại có cổ có kim, tình thế khi khó khi dễ, việc có lúc theo lúc bỏ” và viết: “Vào lúc thời thế đang có sự thay đổi này, để mưu tính cho nền văn hiến đất nước lâu dài trăm năm, đồng thời vẫn duy trì nền giáo hóa của các bậc thánh hiền ngày trước, thì lấy việc tri thức mới để làm phong phú cho trí thức cũ, mở mang Tân học để bảo tồn Cựu học”. Năm 1912, cụ lại viết: “Ngày nay phong vận đổi mới, văn minh bắt đầu mở mang” (7).

Bàn về sự học

Về Cựu học, Cao Xuân Dục muốn đem tinh hoa của Cổ học Trung Hoa đến với mọi người, cụ chủ trương thu thập, biên soạn, viết sắc, trong đó có cuốn “Mọi người nên biết”, còn gọi là “cùng là người thì cùng biết”, trong ba năm (1899 – 1902) đã hoành thành với 900 chữ Trung Quốc, nay bản in tiếng Việt (2001) khổ giấy 14,5x20,5 cm dày 754 trang. Không biết, trước đó cụ cùng với các cộng sự ở Sứ quán đã ngẫm nghĩ nung nấu như thế nào về nội dung sách, bây giờ xem Mục lụcthấy nghĩ được dàn ý, xếp theo chương mục, cuối mỗi chương lại có thơ, ca để dễ nhớ, rồi tìm tư liệu qua sách vở (sách thánh hiền, biên niên, kiệt tác, lời hay của Bác gia chư tử) mấy ngàn năm trong tủ sách Trung hoa, rồi lựa chọn những điều tâm đắc và có ich cho dân ta, hiệu chỉnh, tóm tắt hoặc toát yếu, và năm 1902 in thành sách – là một khối công việc đồ sộ với một vốn văn hóa lớn lao, đặc biệt, phải có tư tưởng lớn nhằm mục đích nhân văn: sách đem đến mọi người những điều luân thường đạo lý (nhân luân), triết lý nhân sinh hàng ngày, phẩm hạnh và đối nhân xử thế - dạy làm người. Bỏ qua những lời không phù hợp với thể chế Cộng hòa, biết bao nhiêu điều dạy làm người” hãy còn bổ ích cho ngày nay. Với vốn hiểu biết hạn chế tôi tập trung nêu lên một vài nội dung về giáo dục.

Về giáo dục, trong “Người đời nên biết” Cao Xuân Dục đặt dưới tiêu đề: “Sự học”, một mục trong quyền IV dưới tiêu đề “Cách thức làm ăn”. Trong cách thức làm ăn đầu tiên nói đến “việc học”, thứ hai là “y nghiệp”, thứ ba là “nghề nông” (có cả trồng dâu nuôi tằm), thứ tư là “buôn bán”… Như vậy là muốn biết làm ăn trước tiên phải học. Tôi dừng lại ở chương “Sự học”. Cụ xác định nội hàm của “hiếu học”, trước hết là “ham học” và “biết học”. Ham học là “học không biết chán”: trẻ đã phải ham học, lớn tiếp tục ham học, già vẫn phải ham học. Còn “biết học” Cụ chri ra là: (1) học ở công việc thực tế, (2) học qua lời nói, (3) học cái lý của sự vật, (4) học cái phép của con người. Qua những gì cụ đã công hiến cho dòng văn hóa – giáo dục nước nhà Cao Xuân Dục thực là người hiếu học và biết học tiêu biểu nhất thời đó. Đặc biệt nhấn mạnh vai trò của sách, hiếu học là ham đọc sách. Đi đến đâu thấy có sách hay là cụ đều cho sao chép đến 5 bản để lưu lại và truyền bá trong giới trí giả cùng dân chúng, dựng nên thư viện Logn Cương có đến 20.000 cuốn. Đọc sách có quan hệ rất lớn với quốc kế dân sinh (mục Trồng dâu nuôi tằm). Có nhiều căn cứ để khẳng định Cao Xuân Dục đã đánh một mốc son trong tiến trình xây dựng, phát triển và phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc ta. Hiếu học có trọng tâm trong giáo dục toàn diện rất hay, nhấn mạnh: học phải đến khi làm được mới dừng – học thuật đủ để chấn hưng, nói đủ để cứu đời. Trong việc học rất coi trọng kinh nghiệm, trải nghiệm: “duy có từng trải nhiều thì thần trí mới ngày một tăng”. Nói “thần trí” là nói đến cả thế giới tinh thần – tâm lý của con người, trong đó trí tuệ giữ vai trò đặc biệt, nên có câu: “Không học không thể nên người”. Cao Xuân Dục là tấm gương sáng ngời về học để nên người. Chữ “học” với nghĩa rộng, gần như trong cùng vòng tròn lô gích với khái niệm “giáo dục”. Tiếp theo chúng tôi trình bày tiếp một số thu hoạch qua đọc hai tác phẩm lớn của cụ, tập trung vào những điểm nói về giáo dục.

Triết lý giáo dục: học làm người, thực học, thực nghiệp

Vào năm 1912, còn 7 năm nữa (1919) hệ thống giáo dục ở nước ta sẽ chuyển hẳn sang Tây học, với tư cách là Thượng thư Bộ Học tại Lễ xướng danh trường Thừa Thiên Cao Xuân Dục đã nói: “… hào kiệt quý ở chỗ thức thời, học vấn quý ở chỗ biết chọn ra cái hay cái tốt. Hiện nay học giới ngày một mở mang, triết lý ngày thêm phong phú. Thấu hiểu được nghĩa của chữ thời chính là phải từ bỏ hư văn để chú trọng vào thực học, đào sâu vào lý thuyết mới để bổ sung cho kiến thức cũ” (8). Thực học trước hết để làm người. VỚi tư cách Quản vụ Quốc tử giám cụ nói: Nhà trường có nhiệm vụ đào tạo con người, “việc học chính là học cách để làm người”, “học thuật phải phục vụ được cho đời”. Đến nay vừa đúng thế kỷ, chống lối học hư văn, để theoo triết học làm người, thực học, thực nghiệp - triết lý giáo dục còn nguyên tính thời sự. Ngày nay chúng ta nói đến hình thành cho người học năng lực, giá trị sống thực. Ý tưởng đó năm 1910 Cao Xuân Dục nói tại Quốc tử giám như thế này: nhà trường dạy và các trò học, “nhưng con người ấy có thể tự đững được hay không thì lại phụ thuộc vào bản thân anh ta có tư tưởng ra sao, sức lực khả năng thế nào”. Cụ cũng nói đến mục tiêu giáo dục hoàn thiện nhân cách. Muốn hoàn thiện nhân cách phải có 3 điều kiện: 1) bản lĩnh lớn, 2) kiến thức lớn, 3) năng lực lớn. Theo đây, tác giả của quan niệm này xứng đáng được tôn vinh là một nhân cách lớn. Có thể nói, triết lý giáo dục Cao Xuân Dục thiên hẳn về giáo dục thực dụng. Trong Long cương văn tậpnhiều chỗ cụ nói và viết như vậy. Chẳng hạn, trong tờ trình xin in các bài văn mẫu (1891), cụ viết: “… nề nếp đã thay, thể chế cũng không giống như trước, đòi hỏi phải có thực học, văn phải cầu thực dụng thì việc kén chọn nhân tài mới thu được hiệu quả”. Trong văn thư năm 1905 một lần nữa lại khẳng định “… việc học lại quý ở thực dụng, lời nói phải đi đôi với hành động, như thế mới trở thành thứ văn chương hữu dụng”. Con người muốn sống có ích, phải học để có nghề, năm 1907, cụ viết: “học xong thì có chuyên nghiệp”. Khi đó cụ đã có ý kiến: trẻ em 6 tuổi đi học tiểu học, rồi đến 12 tuổi chỉ những em nào thông minh sáng dạ, chăm chỉ học tập thì mới lên học các trường chuyên nghiệp, như canh nông, công nghiệp, thương mại… Ngày nay chúng ta nói là “phân luồng” học sinh sau lớp 9 hay phổ thông trung học.

Bốn vấn đề lớn của sự nghiệp trồng người

Cao Xuân Dục ý thức rất rõ về vai trò của giáo dục như là cốt lõi của văn minh, văn hóa. Văn minh, văn hóa bắt đầu từ dân trí, nhân tài, đất nước thịnh vượng. Năm 1907, cụ viết: “… Giáo hóa dân rèn nên phong tục tất phải thông qua việc học hành. Vì thế muốn khơi mở dân trí trước hết phải bằng con đường học thuật thì anh tài tử đó mới sinh sôi nảy nở, cuộc sống từ đó mới trở nên giàu có, phong tục qua đó mới trở nên tốt đẹp”. Năm 1910, cụ đã nói ở Quốc tử giám: “Người xưa có câu: Mưu lợi ích mười năm không gì bằng trồng cây, vì lợi ích trăm năm không gì bằng trồng người”. Năm 1909, cũng tại Quốc tử giám cụ đã chỉ ra bốn vấn đề lớn của sự nghiệp trồng người như sau. Một là, “chỉnh đốn học thuật”, đừng quá chuộng nghãi lý văn chương, mà phải quan tâm đến “cách vật” - ứng dụng. Hai là, “dự trù kinh phí cho giáo dục”: xây trường, lập thư viện, mua sách, tặng học bổng cho sinh viên, tăng lương cho giáo viên… Ba là, “tuyển chọn thầy giáo”: các thầy đều phải qua trường sư phạm, phải biết tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ; thầy giáo có tốt mới đào tạo ra người tốt được. Bốn là, “tổ chức dạy và học”: quy định chương trình, khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh. Trong “Người đời nên biết” có hẳn một chương về “Đạo làm thầy”. Không nói ai cũng thấy tính thời sự của bốn kiến nghị này cho công cuộc đổi mới giáo dục ngày nay.

Về các môn học, Quốc sử coi là cái gốc của học vấn, nhưng nên hạn chế trong những điều hay điều dở trong chính sự, sự hưng suy của các triều đạo. Đề xuất cho dạy những kiến thức khái quát về nông, công, thương, bản đồ, lý, hóa… Về ngôn ngữ, cụ đề nghị phải học cả chữ Hán, chữ Pháp, và Quốc ngữ.

Mấy điều nghiên cứu, thu hoạch về công lao đóng góp của cụ Cao Xuân Dục, vị bộ trưởng giáo dục đầu tiên của nước nhà, chắc chắn mới là bước đầu, mới được phần nào. Tuy vậy, dưới góc độ của lịch sử giáo dục, cũng đã có đủ cơ sở để tôn vinh Cao Xuân Dục là danh nhân tiêu biểu trong dòng chảy văn hóa – giáo dục Việt Nam.

Chú thích:

1) Ngô Đức Thọ chủ biên, Các nhà khoa bảng Việt Nam,1075 – 1919, Nxb, Văn học HN, 1993.

2) Cao Xuân Dục, Long cương văn tập, Nguyễn Văn Nguyên dịch, chú, Nxb Lao Động, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, HN, 2012, tr 150.

3) nt

4) Tuyển tập Cao Xuân Dục, tập 1. Người đời nên biết.Người dịch: Trần Lê Sáng và Phạm Kỳ Nam, Nxb Văn học HN, 2001, tr 9. Cao Xuân Phổ, Về tác giả và tác phẩm.

5) nt tr.10

6) Trần Quốc Bảo, Thái độ của Cao Xuân Dục trong vụ án Phan Châu Trinhtại Huế(1908), http://www.ngheandost.gov.vn/?module=311&subID=134@newsID=293&sid=KHCN223990375954368977675749.

7) Những đoạn trên đều trích Long Cương văn tập, Sđd.

8) Long Cương văn tập, sđd, tr 142.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.