Cao Xuân Dục -Danh nhân tiêu biểu trong dòng chảy văn hóa giáo dục Việt Nam
Bộ trưởng giáo dục đầu tiên
Cụ Cao Xuân Dục sinh năm 1842, mãi 36 tuổi mới đỗ cử nhân, rồi ra làm quan, từ biện lý bộ hình đến Án sát, Bố chánh, Tuần phủ, Tổng đốc… sau đó, trong khoảng 13 – 14 năm (1898 – 1912) giữ năm chức toàn là việc khoa học và giáo dục. Tính từ năm Cao Xuân Dục đỗ cử nhân (1876) đến lúc cụ giữ chức Phó tổng tài Quốc sử quán cả nước có hơn 100 vị đỗ đại khoa (Phó bảng, Tiến sĩ), và 9 năm nữa, đến năm cụ nhận chức Thượng thư Bộ Học (1898 – 1907) có thêm khoảng 50 vị đỗ đại khoa nữa (1). Số vị đỗ cử nhân trong khoảng thời gian đó chắc chắn còn đông hơn. Thế mà lần đầu tiên Việt Nam có Bộ Học (tách từ Bộ Lễ ra), cử nhân Cao Xuân Dục đã được bổ nhiệm làm bộ trưởng, ông trở thành bộ trưởng giáo dục đầu tiên trong lịch sử giáo dục nước nhà.
Chỉ với bằng cử nhân, nhưng chính giới và các bậc trí giả cùng thời đều thán phục cụ là người học rộng biết nhiều, một tấm gương tự học có một không hai, bác học uyên thâm, đặc biệt, như chính cụ tự nhận “theo nghề văn chương câu cú” (2), xây dựng tủ sách gia đình đến một, hai vạn cuốn, viết rất nhiều, và có tài “thực thi những điều đã học” (3), một nho gia lừng danh ở kinh đô, trong triều đình và mọi miền Nam Bắc. Ngay một số quan chức Pháp một mặt không ưa gì Cao Xuân Dục, mặt khác vẫn thán phục ông là một người rất có học thức, thông minh có tiếng, “một nho sĩ tinh tế, có những quan niệm độc đáo được diễn đạt bằng một ngòi bút nhuần nhị và óng ả” (4). Đăng tin cụ mất, báo Diễn đàn bản xứviết: Cụ là người có tâm hồn cao đẹp, đầy đức độ và nhân ái, một nho sĩ nhuần nhị nhất” (5). Người đầy đức độ và nhân ái xứng đáng được được giaoo trọng trách bộ trưởng đầu tiên bộ giáo dục nước nhà.
Cao Xuân Dục giữ các chức trách tất cả 36 năm 6 tháng, trong một nửa làm quan, nhưng cụ “đã chọn cho mình một lối làm quan rất riêng biệt”, như nhà văn Sơn Tùng (2002) viết: “Cao Xuân Dục ẩn thân chốn quan trường che chở cho dân lành” (6). Về hệ tư tưởng, cuối thế kỷ XIX áp lực Nho giáo ở Việt Nam vẫn mạnh, mặc dù nước ta đang ở buổi giao thời từ chế độ phong kiến sang chế độ nửa phong kiến nửa thực dân và vào thời kỳ nước nhà lạc hậu bắt đầu tiếp xúc với những yếu tố văn minh phương Tây. Năm 1896, Toàn quyền Đông Dương ký quyết định thành lập trường Quốc học Huế, năm 1905 thành lập trường Bưởi ở Hà Nội… Trong hoàn cảnh ấy Cao Xuân Dục lo nghĩ nhiều đến việc giáo dục, đến nền văn hiến dân tộc. Năm 1905, cụ đã nhận định: “Sự tiến hóa rồi đây thực khó lường biết trước”, ngày nay (năm 1911) là “thời đại có cổ có kim, tình thế khi khó khi dễ, việc có lúc theo lúc bỏ” và viết: “Vào lúc thời thế đang có sự thay đổi này, để mưu tính cho nền văn hiến đất nước lâu dài trăm năm, đồng thời vẫn duy trì nền giáo hóa của các bậc thánh hiền ngày trước, thì lấy việc tri thức mới để làm phong phú cho trí thức cũ, mở mang Tân học để bảo tồn Cựu học”. Năm 1912, cụ lại viết: “Ngày nay phong vận đổi mới, văn minh bắt đầu mở mang” (7).
Bàn về sự học
Về Cựu học, Cao Xuân Dục muốn đem tinh hoa của Cổ học Trung Hoa đến với mọi người, cụ chủ trương thu thập, biên soạn, viết sắc, trong đó có cuốn “Mọi người nên biết”, còn gọi là “cùng là người thì cùng biết”, trong ba năm (1899 – 1902) đã hoành thành với 900 chữ Trung Quốc, nay bản in tiếng Việt (2001) khổ giấy 14,5x20,5 cm dày 754 trang. Không biết, trước đó cụ cùng với các cộng sự ở Sứ quán đã ngẫm nghĩ nung nấu như thế nào về nội dung sách, bây giờ xem Mục lụcthấy nghĩ được dàn ý, xếp theo chương mục, cuối mỗi chương lại có thơ, ca để dễ nhớ, rồi tìm tư liệu qua sách vở (sách thánh hiền, biên niên, kiệt tác, lời hay của Bác gia chư tử) mấy ngàn năm trong tủ sách Trung hoa, rồi lựa chọn những điều tâm đắc và có ich cho dân ta, hiệu chỉnh, tóm tắt hoặc toát yếu, và năm 1902 in thành sách – là một khối công việc đồ sộ với một vốn văn hóa lớn lao, đặc biệt, phải có tư tưởng lớn nhằm mục đích nhân văn: sách đem đến mọi người những điều luân thường đạo lý (nhân luân), triết lý nhân sinh hàng ngày, phẩm hạnh và đối nhân xử thế - dạy làm người. Bỏ qua những lời không phù hợp với thể chế Cộng hòa, biết bao nhiêu điều dạy làm người” hãy còn bổ ích cho ngày nay. Với vốn hiểu biết hạn chế tôi tập trung nêu lên một vài nội dung về giáo dục.
Về giáo dục, trong “Người đời nên biết” Cao Xuân Dục đặt dưới tiêu đề: “Sự học”, một mục trong quyền IV dưới tiêu đề “Cách thức làm ăn”. Trong cách thức làm ăn đầu tiên nói đến “việc học”, thứ hai là “y nghiệp”, thứ ba là “nghề nông” (có cả trồng dâu nuôi tằm), thứ tư là “buôn bán”… Như vậy là muốn biết làm ăn trước tiên phải học. Tôi dừng lại ở chương “Sự học”. Cụ xác định nội hàm của “hiếu học”, trước hết là “ham học” và “biết học”. Ham học là “học không biết chán”: trẻ đã phải ham học, lớn tiếp tục ham học, già vẫn phải ham học. Còn “biết học” Cụ chri ra là: (1) học ở công việc thực tế, (2) học qua lời nói, (3) học cái lý của sự vật, (4) học cái phép của con người. Qua những gì cụ đã công hiến cho dòng văn hóa – giáo dục nước nhà Cao Xuân Dục thực là người hiếu học và biết học tiêu biểu nhất thời đó. Đặc biệt nhấn mạnh vai trò của sách, hiếu học là ham đọc sách. Đi đến đâu thấy có sách hay là cụ đều cho sao chép đến 5 bản để lưu lại và truyền bá trong giới trí giả cùng dân chúng, dựng nên thư viện Logn Cương có đến 20.000 cuốn. Đọc sách có quan hệ rất lớn với quốc kế dân sinh (mục Trồng dâu nuôi tằm). Có nhiều căn cứ để khẳng định Cao Xuân Dục đã đánh một mốc son trong tiến trình xây dựng, phát triển và phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc ta. Hiếu học có trọng tâm trong giáo dục toàn diện rất hay, nhấn mạnh: học phải đến khi làm được mới dừng – học thuật đủ để chấn hưng, nói đủ để cứu đời. Trong việc học rất coi trọng kinh nghiệm, trải nghiệm: “duy có từng trải nhiều thì thần trí mới ngày một tăng”. Nói “thần trí” là nói đến cả thế giới tinh thần – tâm lý của con người, trong đó trí tuệ giữ vai trò đặc biệt, nên có câu: “Không học không thể nên người”. Cao Xuân Dục là tấm gương sáng ngời về học để nên người. Chữ “học” với nghĩa rộng, gần như trong cùng vòng tròn lô gích với khái niệm “giáo dục”. Tiếp theo chúng tôi trình bày tiếp một số thu hoạch qua đọc hai tác phẩm lớn của cụ, tập trung vào những điểm nói về giáo dục.
Triết lý giáo dục: học làm người, thực học, thực nghiệp
Vào năm 1912, còn 7 năm nữa (1919) hệ thống giáo dục ở nước ta sẽ chuyển hẳn sang Tây học, với tư cách là Thượng thư Bộ Học tại Lễ xướng danh trường Thừa Thiên Cao Xuân Dục đã nói: “… hào kiệt quý ở chỗ thức thời, học vấn quý ở chỗ biết chọn ra cái hay cái tốt. Hiện nay học giới ngày một mở mang, triết lý ngày thêm phong phú. Thấu hiểu được nghĩa của chữ thời chính là phải từ bỏ hư văn để chú trọng vào thực học, đào sâu vào lý thuyết mới để bổ sung cho kiến thức cũ” (8). Thực học trước hết để làm người. VỚi tư cách Quản vụ Quốc tử giám cụ nói: Nhà trường có nhiệm vụ đào tạo con người, “việc học chính là học cách để làm người”, “học thuật phải phục vụ được cho đời”. Đến nay vừa đúng thế kỷ, chống lối học hư văn, để theoo triết học làm người, thực học, thực nghiệp - triết lý giáo dục còn nguyên tính thời sự. Ngày nay chúng ta nói đến hình thành cho người học năng lực, giá trị sống thực. Ý tưởng đó năm 1910 Cao Xuân Dục nói tại Quốc tử giám như thế này: nhà trường dạy và các trò học, “nhưng con người ấy có thể tự đững được hay không thì lại phụ thuộc vào bản thân anh ta có tư tưởng ra sao, sức lực khả năng thế nào”. Cụ cũng nói đến mục tiêu giáo dục hoàn thiện nhân cách. Muốn hoàn thiện nhân cách phải có 3 điều kiện: 1) bản lĩnh lớn, 2) kiến thức lớn, 3) năng lực lớn. Theo đây, tác giả của quan niệm này xứng đáng được tôn vinh là một nhân cách lớn. Có thể nói, triết lý giáo dục Cao Xuân Dục thiên hẳn về giáo dục thực dụng. Trong Long cương văn tậpnhiều chỗ cụ nói và viết như vậy. Chẳng hạn, trong tờ trình xin in các bài văn mẫu (1891), cụ viết: “… nề nếp đã thay, thể chế cũng không giống như trước, đòi hỏi phải có thực học, văn phải cầu thực dụng thì việc kén chọn nhân tài mới thu được hiệu quả”. Trong văn thư năm 1905 một lần nữa lại khẳng định “… việc học lại quý ở thực dụng, lời nói phải đi đôi với hành động, như thế mới trở thành thứ văn chương hữu dụng”. Con người muốn sống có ích, phải học để có nghề, năm 1907, cụ viết: “học xong thì có chuyên nghiệp”. Khi đó cụ đã có ý kiến: trẻ em 6 tuổi đi học tiểu học, rồi đến 12 tuổi chỉ những em nào thông minh sáng dạ, chăm chỉ học tập thì mới lên học các trường chuyên nghiệp, như canh nông, công nghiệp, thương mại… Ngày nay chúng ta nói là “phân luồng” học sinh sau lớp 9 hay phổ thông trung học.
Bốn vấn đề lớn của sự nghiệp trồng người
Cao Xuân Dục ý thức rất rõ về vai trò của giáo dục như là cốt lõi của văn minh, văn hóa. Văn minh, văn hóa bắt đầu từ dân trí, nhân tài, đất nước thịnh vượng. Năm 1907, cụ viết: “… Giáo hóa dân rèn nên phong tục tất phải thông qua việc học hành. Vì thế muốn khơi mở dân trí trước hết phải bằng con đường học thuật thì anh tài tử đó mới sinh sôi nảy nở, cuộc sống từ đó mới trở nên giàu có, phong tục qua đó mới trở nên tốt đẹp”. Năm 1910, cụ đã nói ở Quốc tử giám: “Người xưa có câu: Mưu lợi ích mười năm không gì bằng trồng cây, vì lợi ích trăm năm không gì bằng trồng người”. Năm 1909, cũng tại Quốc tử giám cụ đã chỉ ra bốn vấn đề lớn của sự nghiệp trồng người như sau. Một là, “chỉnh đốn học thuật”, đừng quá chuộng nghãi lý văn chương, mà phải quan tâm đến “cách vật” - ứng dụng. Hai là, “dự trù kinh phí cho giáo dục”: xây trường, lập thư viện, mua sách, tặng học bổng cho sinh viên, tăng lương cho giáo viên… Ba là, “tuyển chọn thầy giáo”: các thầy đều phải qua trường sư phạm, phải biết tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ; thầy giáo có tốt mới đào tạo ra người tốt được. Bốn là, “tổ chức dạy và học”: quy định chương trình, khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh. Trong “Người đời nên biết” có hẳn một chương về “Đạo làm thầy”. Không nói ai cũng thấy tính thời sự của bốn kiến nghị này cho công cuộc đổi mới giáo dục ngày nay.
Về các môn học, Quốc sử coi là cái gốc của học vấn, nhưng nên hạn chế trong những điều hay điều dở trong chính sự, sự hưng suy của các triều đạo. Đề xuất cho dạy những kiến thức khái quát về nông, công, thương, bản đồ, lý, hóa… Về ngôn ngữ, cụ đề nghị phải học cả chữ Hán, chữ Pháp, và Quốc ngữ.
Mấy điều nghiên cứu, thu hoạch về công lao đóng góp của cụ Cao Xuân Dục, vị bộ trưởng giáo dục đầu tiên của nước nhà, chắc chắn mới là bước đầu, mới được phần nào. Tuy vậy, dưới góc độ của lịch sử giáo dục, cũng đã có đủ cơ sở để tôn vinh Cao Xuân Dục là danh nhân tiêu biểu trong dòng chảy văn hóa – giáo dục Việt Nam.
Chú thích:
1) Ngô Đức Thọ chủ biên, Các nhà khoa bảng Việt Nam,1075 – 1919, Nxb, Văn học HN, 1993.
2) Cao Xuân Dục, Long cương văn tập, Nguyễn Văn Nguyên dịch, chú, Nxb Lao Động, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, HN, 2012, tr 150.
3) nt
4) Tuyển tập Cao Xuân Dục, tập 1. Người đời nên biết.Người dịch: Trần Lê Sáng và Phạm Kỳ Nam, Nxb Văn học HN, 2001, tr 9. Cao Xuân Phổ, Về tác giả và tác phẩm.
5) nt tr.10
6) Trần Quốc Bảo, Thái độ của Cao Xuân Dục trong vụ án Phan Châu Trinhtại Huế(1908), http://www.ngheandost.gov.vn/?module=311&subID=134@newsID=293&sid=KHCN223990375954368977675749.
7) Những đoạn trên đều trích Long Cương văn tập, Sđd.
8) Long Cương văn tập, sđd, tr 142.








